Thứ Năm, 28 tháng 8, 2014

Hoàng sa ! Hoàng sa!!!


    Hoàng sa ! Hoàng sa!!!
    Mắt mẹ đêm đêm ứa lệ nhòa,
    Con mẹ mất đi từ độ ấy,
    Bao giờ gặp lại hỡi Hoàng sa ?...
    Reply this comment

TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP








TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP



Nguyên bản Hán Văn:
南國山河

南 國 山 河 南 帝 居
截 然 定 分 在 天 書
如 何 逆 虜 來 侵 犯
汝 等 行 看 取 敗 虛
Bản phiên âm Hán-Việt:
Nam quốc sơn hà

Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại Thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Bản dịch thơ:
Sông núi nước Nam

Sông núi nước Nam, vua Nam ở,
Rành rành định phận tại sách Trời.
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm,
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.




LÝ THƯỜNG KIỆT




"Ðất nước Việt Nam có khi thịnh khi suy, lịch sử Việt Nam có khi hưng khi phế, thế hệ trước không giữ được Hoàng Sa nhưng không phải vì thế mà Hoàng Sa trở thành đất của Trung Quốc hay của bất cứ một quốc gia nào khác. Dân tộc Việt Nam, các thế hệ Việt Nam hôm nay và mai sau phải nhớ rằng: Bất cứ khi nào các điều kiện kinh tế, chính trị và quân sự cho phép, một trong những việc đầu tiên là phải lấy lại Hoàng Sa."

TOÀN DÂN VIỆT NAM





TRÁNG SĨ MÀI GƯƠM

Chiều mưa đêm gió Hoàng sa lạnh,
Tráng sĩ ngồi đây buốt lạnh lòng.
Kiếm gỏ sao khuya tràn hận biển,
Gươm mài núi khuyết ngập hờn sông.
Vua Hùng dựng nước – ngàn son sắt,
Dân Việt chung xây - một chữ đồng,
Hẹn quyết ngày mai thề lấy lại,
Tấc vàng tất đất của cha ông…


TRẦN NAM VƯƠNG

Chủ Nhật, 24 tháng 8, 2014

Tâm Sự Tuổi Già

"
 
Sống Già" kẻo nữa Già đi,
Anh em, chúng bạn cười khì chê bai !
"Già rồi" ! Chẳng chịu vươn vai,
Ông Xanh gõ cửa, một hai "Chưa Già" !
Chưa Già thì cũng phải Già,
Tới số,tới phận,ba hoa ích gì !
Ông Trời, ngoảnh mặt quay đi,
"Già không nên  nết" ích gì mà ham !
HT.
Tác giả: Chu Dung Cơ – Thanh Dũng dịch
 
Tháng ngày hối hả, đời người ngắn ngủi, thoáng chốc đã già. Chẳng dám nói hiểu hết mọi lẽ nhân sinh, nhưng chỉ có hiểu cuộc đời thì mới sống thanh thản, sống thoải mái.
 
Qua một ngày, mất một ngày. Qua một ngày, vui một ngày. Vui một ngày lãi một ngày…
Hạnh phúc do mình tạo ra. Vui sướng là mục tiêu cuối cùng của đời người, niềm vui ẩn chứa trong những sự việc vụn vặt nhất trong đời sống, mình phải tự tìm lấy. Hạnh phúc và vui sướng là cảm giác và cảm nhận, điều quan trọng là ở tâm trạng.
 
Tiền không phải là tất cả nhưng không phải không là gì. Đừng có coi trọng đồng tiền, càng không nên quá so đo, nếu hiểu ra thì sẽ thấy nó là thứ ngoại thân, khi ra đời chẳng ai mang nó đến, khi chết chẳng ai mang nó theo. Nếu có người cần bạn giúp, rộng lòng mở hầu bao, đó là một niềm vui lớn. Nếu dùng tiền mua được sức khoẻ và niềm vui thì tại sao không bỏ tiền ra mà mua? Nếu dùng tiền mà mua được sự an nhàn tự tại thì đáng lắm chứ! Người khôn biết kiếm tiền, biết tiêu tiền. Làm chủ đồng tiền, đùng làm tôi tớ cho nó.
 
“Quãng đời còn lại càng ngắn ngủi thì càng phải làm cho nó phong phú”. Người già phải thay đổi cũ kỹ đi, hãy chia tay với “ông sư khổ hạnh” hãy làm “con chim bay lượn”. Cần ăn thì ăn, cần mặc thì mặc, cần chơi thì chơi, luôn luôn nâng cao phẩm chất cuộc sống, hưởng thụ những thành quả công nghệ cao, đó mới là ý nghĩa sống của TUỔI GIÀ.
 
Tiền bạc rồi sẽ là của con, địa vị là tạm thời, vẻ vang là quá khứ, sức khoẻ là của mình.
 
Cha mẹ yêu con là vô hạn; con yêu cha mẹ là có hạn. Con ốm cha mẹ buồn lo; cha mẹ ốm con nhòm một cái, hỏi vài câu là thấy đủ rồi. Con tiêu tiền của cha mẹ thoải mái; cha mẹ tiêu tiền của con chẳng dễ chút nào. Nhà cha mẹ là nhà của con; nhà của con không phải là nhà cha mẹ. Khác nhau là thế, người hiểu đời coi việc lo liệu cho con là nghĩa vụ, là niềm vui, không mong báo đáp. Chờ báo đáp là tự làm khổ mình.
 
Ốm đau trông cậy vào ai ? Trông cậy con ư ? Nếu ốm dai dẳng có đứa con có hiếu nào ở bên giường đâu “cứu bệnh sàng tiền vô hiếu tử”. Trông vào bạn đời ư ? Người ta cũng yếu, có khi lo cho bản thân còn chưa xong, có muốn đỡ đần cũng không làm nổi. Trông cậy vào đồng tiền ư ? chỉ còn cách đấy.
 
Cái được người ta chẳng hay để ý; cái không được thì nghĩ nó to lắm, nó đẹp lắm. Thực ra sự sung sướng và hạnh phúc trong đời tuỳ thuộc vào sự thưởng thức nó ra sao. Người ta hiểu đời rất quý trọng và biết thưởng thức những gì cho mình đã có, và không ngừng phát hiện thêm ý nghĩa của nó, làm cho cuộc sống vui hơn, giàu ý nghĩa hơn.
 
Cần có tấm lòng rộng mở, yêu cuộc sống và thưởng thức cuộc sống, trông lên chẳng bằng ai, trông xuống chẳng ai bằng mình “Tỷ thượng bất túc, tỷ hạ hữu dư”, biết đủ thì lúc nào cũng vui “tri túc thường lạc”.
Tập cho mình nhiều đam mê, vui với chúng không biết mệt mỏi, tự tìm niềm vui. Tốt bụng với mọi người, vui vì làm việc thiện, lấy việc giúp người làm niềm vui.
 
Con người ta vốn chẳng phân biệt giàu nghèo sang hèn, tận tâm vì công việc là coi như cống hiến, có thể yên lòng, không hổ thẹn với lương tâm là được. Huống hồ người ta cũng nghĩ cả rồi, ai cũng thế cả, cuối cùng là trở về với tự nhiên. Thực ra nghề cao chẳng bằng tuổi thọ cao, tuổi thọ cao chẳng bằng niềm vui thanh cao.
 
Quá nửa đời dành khá nhiều cho sự nghiệp, cho gia đình, cho con cái, bây giờ thời gian còn lại chẳng bao nhiêu nên dành cho mình, quan tâm bản thân, sống thế nào cho vui thì sống, việc gì muốn làm thì làm, ai nói sao mặc kệ vì mình đâu phải sống để người khác thích hay không thích, nên sống thật với mình.
 
Sống trên đời không thể vạn sự như ý, có khiếm khuyết là lẽ thường tình ở đời, nếu cứ chăm chăm cầu toàn thì sẽ bị cái cầu toàn làm khổ sở. Chẳng thà thản nhiên đối mặt với hiện thực, thế nào cũng xong.
Tuổi già tâm không già, thế là già mà không già; tuổi không già tâm già, thế là không già lại thành già. Nhưng giải quyết một vấn đề thì nên nghe già.
 
Sống phải năng hoạt động nhưng đừng quá mức, ăn uống quá thanh đạm thì không đủ chất bổ, quá nhiều thịt cá thì không hấp thụ được. Quá nhàn rỗi thì buồn tẻ, quá ồn ào thì khó chịu… mọi thứ đều nên “VỪA PHẢI”.
 
Người ngu gây bệnh (hút thuốc, say rượu, tham ăn, tham uống….) Người dốt chờ bệnh (ốm đau mới đi khám chữa bệnh….) . Người khôn phòng bệnh, chăm sóc bản thân, chăm sóc cuộc sống. Khát mới uống, đói mới ăn, mệt mới nghỉ, thèm ngủ mới ngủ, ốm mới chữa bệnh….ĐỀU LÀ MUỘN.
 
Phẩm chất sống người già cao hay thấp chủ yếu tuỳ thuộc vào cách suy tưởng :
 
Suy tưởng hướng lợi là bất cứ việc gì đều xét theo yếu tố có lợi, dùng suy tưởng hướng lợi để xây dựng cuộc sống tuổi già sẽ làm cho tuổi già đầy sức sống và tự tin, cuộc sống có hương, có vị.
 
Suy tưởng hướng hại là suy tưởng tiêu cực, sống qua ngày với tâm lý bi quan, sống như vậy sẽ chóng già chóng chết.
 
“Chơi” là một trong những nhu cầu căn bản của tuổi già, hãy dùng trái tim con trẻ để tìm cho mình một trò chơi yêu thích nhất, trong khi chơi hãy thử nghiệm niềm vui chiến thắng, thua không cay, chơi là đùa. Về tâm lý và sinh lý, người già cũng cần kích thích và hưng phấn để tạo ra một tuần hoàn lành mạnh.
 
“Hoàn toàn khoẻ mạnh” đó là nói thân thể khoẻ mạnh, tâm lý khoẻ mạnh và đạo đức khoẻ mạnh.. Tâm lý khoẻ mạnh là biết chịu đựng, biết tự chủ, biết giao tiếp; Đạo đức khoẻ mạnh là có tình yêu thương, sẵn lòng giúp người, có lòng khoan dung, người chăm làm điều thiện sẽ sống lâu…
 
Con người là con người xã hội, không thể sống biệt lập, bưng tai bịt mắt, nên chủ động tham gia hoạt động công ích, hoàn thiện bản thân trong xã hội, thể hiện giá trị của mình đó là cách sống lành mạnh.
 
Cuộc sống tuổi già nên có nhiều bạn gìà trong nhiều thành phần,nhiều mẫu người với nhiều màu sắc khác nhau trong xã hội. Có một hai bạn tốt thì chưa đủ, nên có cả một nhóm bạn già, tình đẹp làm thêm cuộc sống tuổi già, làm cho cuộc sống của bạn nhiều hương vị, nhiều màu sắc.
 
Con người ta chịu đựng, hoà giải và xua tan nỗi đau đều chỉ có thể dựa vào chính mình. Thời gian là vị thầy thuốc giỏi nhất, quan trọng là khi đau buồn bạn chọn cách sống như thế nào.
 
Tại sao khi về già người ta hay hoài cổ “hay nhớ lại chuyện xưa?” Đến những năm cuối đời, người ta đã đi đến cuối con đường sự nghiệp, vinh quang xưa kia đã trở thành mây khói xa vời, đã đứng ở sân ga cuối. Tâm linh cần trong phòng, tinh thần cần thăng hoa, người ta muốn tìm lại những tình cảm chân thành. Về lại chốn xưa, gặp lại người thân, cùng nhắc lại những ước mơ thủa nhỏ, cùng bạn sống. Quý trọng và được đắm mình trong những tình cảm chân thanh là một niềm vui lớn của tuổi già.
 
Nếu bạn đã cố hết sức, mà vẫn không thay đổi tình trạng không hài lòng thì mặc kệ nó. Đó cũng là một sự giải thoát. Chẳng việc gì cố mà được, quả ngắt vội không bao giờ ngọt.
 
“SINH – LÃO – BỆNH – TỬ” là quy luật ở đời, không chống lại được. Khi thần chết gọi thì thanh thản mà đi. Cốt sao sống ngay thẳng không hổ thẹn với lương tâm và cuối cùng đặt cho mình dấu chấm hết thật TRÒN.
 
Chu Dung Cơ


HOA NGUYET QUE



CAY NGUYET QUE


Đặc điểm & chăm sóc cây nguyệt quế

1. Nguồn gốc
Ở Việt Nam cây mọc trong các khu rừng, bao gồm rừng Khộp và rừng thường xanh, tuy nhiên chúng phân bố nhiều ở khu vực gần suối nước, và nơi có ẩm độ từ trung bình đến cao.

Ngày nay, cây được trồng ở khắp mọi nơi với nhiều mục đích sử dụng khác nhau (làm cảnh, làm thuốc,…).

2. Đặc điểm hình thái
Nguyệt Quế là loài cây gỗ nhỏ, cao 2 – 8m, vỏ thân nhẵn, màu trắng vàng nhạt, bóng, phân cành sớm, dài, thấp, mọc cong lên, mập, cong queo.

Lá kép lông chim lẻ, mang 5 – 9 lá phụ, mọc cách, nguyên, dạng bầu dục thuôn, đầu lá tù có mũi, gốc nhọn, màu xanh lục bóng, nhẵn, có đốm tuyến rất nhỏ, dai, thơm, gân nổi giữa rõ, gân bên mảnh.

Cụm hoa chùy nhỏ ở nách lá hay đầu cành. Hoa lớn, hoa trắng vàng nhạt, thơm (nhất là ban đêm). Lá đài hợp ở gốc cao 0.15 cm, màu xanh. Cánh tràng thuôn đều dài 1.5 cm. Hoa có quanh năm.

3. Yêu cầu sinh thái
Nhiệt độ: cây có thể sống và phát triển ở 13°C-39ºC, thích hợp nhất từ 23 ºC -29ºC, ngừng sinh trưởng dưới 13ºC và chết -5ºC.

Ánh sáng: cây không thích ánh sáng trực tiếp và cường độ ánh sáng thích hợp vào buổi sáng và buổi chiều tối, ánh sáng nhẹ vào ban ngày.

Độ ẩm: cây cần độ ẩm cao.

Đất đai : đất thịt pha, thông thoáng, thoát nước tốt, màu mỡ, độ pH từ 5-7 là thích hợp.

4. Sang chậu và thay đất :
Khi đất trong chậu đã cạn kiệt chất bổ dưỡng thì cây có hiện tượng: Cây không còn tươi tắn, có hiện tượng xuống sức, bộ lá kém tươi và bắt đầu nhuốm vàng bệnh hoạn, các cành như không thể cất cao lên được, nhiều rễ con lồi lên mặt đất chậu, lớp đất trên bề mặt chậu mỏng dần đi. Những triệu chứng trên cho thấy đã đến lúc thay đất cho cây.

Nên sang chậu vào mùa xuân hay trước mùa mưa khi cây bắt đầu đâm chồi, nảy lộc và đó là thời tiết mát mẻ.

Dùng dao xắn từ từ phần đất sát thành chậu cho đến khi bầu đất và thành chậu được tách ra hay trước đó một buổi ta tưới nước cho đất thật nhão, như vậy chỉ cần nghiêng chậu là lấy cây ra được.

Tiến hành cắt bỏ rễ lớn và rễ con đã quá già và chỉ chừa lại những rễ non. Nên dùng loại kềm bén để hớt bớt rễ, vết cắt cần cho ngọt, không được giập nát. Bộ rễ sau khi xử lý xong phải được gọn gàng.

Đây cũng là dịp tốt để ta cắt tỉa những cành, nhánh mọc không đúng cách, hoặc sửa đổi chúng.

5. Bón phân:
Bón phân định kỳ 1-2 tháng/lần, lượng bón cho mỗi cây/đợt tùy theo cây lớn nhỏ như sau:
Từ 5-10 gam NPK 20-20-15
Bón phân Dinamix, khoảng 15-20 gam


Nếu trồng cây trong chậu thì cứ 3-4 tháng thay đất một lần bằng cách bỏ bớt 1/4-1/3 đất cũ trong chậu thay bằng hỗn hợp đất sạch.

6. Phun phân bón lá:
- Thời kỳ cây đang lớn hoặc sau cắt tỉa: Pha 1-2 gam Đầu Trâu 501 trong 1 lít nước, phun định kỳ 7-10 ngày/lần. Xen kẽ vào đó là dung dịch Chitosan phun kích thích

- Thời kỳ sau khi chuyển chậu hoặc cắt tỉa: Pha1-2 gam Đầu Trâu 701 trong 1 lít nước, phun định kỳ 7-10 ngày/lần.

- Phun dưỡng cây định kỳ bằng cách pha 1-2 gam Đầu Trâu 901 trong 1 lít nước, phun định kỳ 7-10 ngày/lần.

- Khoảng 15 đến 20 ngày cần phun kích thích sinh trưởng cho cây bằng dung dịch Chitosan, pha cao hơn nòng độ cho phép trên bao bì khoảng 10 đến 15%.

Trong thời gian này cần tăng cường Kly để cây đảm bảo cứng cáp, an toàn cho việc phát triển cây.

nguonn: http://bloghoctap.blogspot.com/2014/04/ac-iem-cham-soc-cay-nguyet-que.html

==============================================================

cham-soc-cay-nguyet-que
http://www.saigonhoa.vn/bac-si-cay-trong/dac-diem-cham-soc-cay-nguyet-que/


http://agriviet.com/threads/cach-cho-cay-nguyet-que-ra-hoa.17010/  Cách cho cây Nguyệt Quế ra hoa


https://plus.google.com/111598604374864588645/posts/Ki9Q2yfNUUx  nguyet que va giai nhan

https://www.google.com/#q=caynguyetque.blogspot.com&start=10

Thứ Bảy, 23 tháng 8, 2014

Hoa tường vy nở rộ ở Mỹ

Hoa tường vy nở rộ ở Mỹ
http://vnexpress.net/tin-tuc/cong-dong/anh/hoa-tuong-vy-no-ro-o-my-2836939.html

Hoa tường vy nở rộ ở Mỹ

Hoa Crape Myrtle (tường vy) được trồng rất nhiều ở Houston (Texas, Mỹ), khắp nơi hai bên đường, trong công viên, sân trường học, bệnh viện ... và khu dân cư. Hoa nở vào mùa hè, có nhiều màu.
>> Đồng cỏ nở hoa rực rỡ ở Texas
Ở Việt Nam, Hoa Crape Myrtle được gọi bằng những cái tên lãng mạn như hoa tường vy, bằng lăng...
1-727003-1372042590_500x0.jpg
18-129329-1372042592_500x0.jpg
19-636885-1372042596_500x0.jpg
20-602065-1372042598_500x0.jpg
21-972582-1372042599_500x0.jpg
22-185667-1372042601_500x0.jpg
10-332389-1372042603_500x0.jpg
3-488835-1372042605_500x0.jpg
12-621931-1372042617_500x0.jpg
13-854906-1372042629_500x0.jpg
Hồ Thị Hải Trang



========================================================



 
 
====================================================
 

Tử vi (hoa) – Wikipedia tiếng Việt

Nhiều bài báo đưa hình ảnh và danh pháp khoa học của cây Tử vi nhưng lại gọi là Tường vi. Ngay cả khi dịch bài thơ Tử vi hoa của Bạch Cư Dị, hai chữ Tử vi ...
 
 
=======================================================
 
Hoa Tường Vi - Cách chăm sóc
 
 
========================================================
 
 ----------------------------------------------


 Hoa tường vi  tên tiếng anh là Climbing rose
Loài hoa này đại diện cho lời tỏ tình vì nó cũng thuộc họ Hồng, cụ thể:
Hoa tường vi : tỏ sự yêu thương.
Hoa tường vi đỏ : tỏ ý muốn được yêu.
Hoa tường vi trắng : tỏ tình yêu trong trắng.
Hoa tường vi phấn hồng : tỏ lời hứa hẹn. 
 ----------------------------------------------
 
 Một số tên tiếng Anh các loài hoa khác:
Phong lan: orchid
Hoa đồng tiền: gerbera
Hoa dâm bụt: rose-mallow
Hoa cẩm chướng: carnation
Hoa cúc: daisy
Hoa lài: jasmine
Hoa lưu ly; forget-me-not
Hoa thuỷ tiên: narcissus
Hoa thược dược: dahlia
 
 
 
 

HOA MAU DON



HOA MAU DON



http://kenh14.vn/doi-song/peony-thu-choi-hoa-moi-cua-cac-ban-tre-viet-20140624102745377.chn

====================================================================


Hoa mẫu đơn là một trong số các hoa đã được sử dụng lâu nhất trong văn hóa trang trí và là một trong các biểu trưng quốc gia của Trung Quốc. Cùng với hoa mai, nó là biểu tượng thực vật truyền thống của quốc gia này, tại đây người ta gọi nó là 牡丹 (mẫu đơn). Năm 1903, nhà Thanh tuyên bố rằng mẫu đơn là quốc hoa. Hiện nay, Trung Hoa dân quốc tại Đài Loan đã chọn hoa mai (Prunus mume) là quốc hoa, trong khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa không có quốc hoa chính thức. Năm 1994, hoa mẫu đơn đã được đề nghị làm quốc hoa sau một cuộc trưng cầu dân ý khắp toàn quốc, nhưng Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc đã thất bại trong việc thông qua sự lựa chọn này. Năm 2003, một quá trình lựa chọn khác cũng đã được bắt đầu, nhưng cho tới năm 2006 thì vẫn chưa có sự chọn lựa nào được đưa ra.
Thành phố cổ nổi tiếng Lạc Dương của Trung Quốc có danh tiếng như là trung tâm nuôi trồng các loài mẫu đơn. Trong lịch sử Trung Quốc, mẫu đơn của Lạc Dương luôn được coi là đẹp nhất. Hàng loạt các cuộc triển lãm hoa mẫu đơn cũng được tổ chức ở đây hàng năm.
Tại Nhật Bản, Paeonia lactiflora đã từng được gọi là ebisugusuri ("y học ngoại quốc"). Trong hán phương (sự sửa đổi lại của y học cổ truyền Trung Hoa cho thích hợp với Nhật Bản), rễ của các loài mẫu đơn được dùng để điều trị chứng co giật. Nó cũng được trồng làm cây cảnh. Người ta cũng cho rằng Paeonia lactiflora là "vua của các loài hoa".
Mẫu đơn cũng là loài hoa biểu trưng của bang Indiana, Mỹ. Năm 1957, Quốc hội bang Indiana đã thông qua một đạo luật để cho hoa mẫu đơn trở thành hoa biểu trưng của bang. Nó thay thế cho cúc zinnia là loài hoa biểu trưng của bang này từ năm 1931.
Các loài mẫu đơn có xu hướng thu hút kiến tới các nụ hoa. Đó là do mật hoa được tạo ra ở bên ngoài các nụ hoa này.

nguon:wikipedia.org
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Hoa Mẫu đơn, loài hoa được xem là quốc hoa của Trung Quốc

Hôm nay shop hoa xin gửi đến các bạn một bài viết về một loài hoa quốc sắc ở đất nước Trung Hoa. Hy vọng bài viết sẽ giúp các bạn hiểu thêm một số nét về tinh thần của từng dân tộc khi chọn một loài hoa làm quốc hoa
Chắc hẳn ai cũng biết mẫu đơn là loài hoa biểu tượng cho sự giàu có, vương giả và sắc đẹp và đặc biệt mẫu đơn được tôn vinh ở Trung Quốc, được người dân nơi đây chọn làm quốc hoa
Mẫu đơn có nguồn gốc từ Trung Quốc và Tây Tạng, là một trong những cây hoa được con người biết đến từ rất sớm, cách đây đã gần 4000 năm. Khi những nhà truyền giáo đạo Phật đến Nhật Bản, họ đã đem theo kiến thức về những bông hoa Mẫu đơn này. Người Nhật luôn là một dân tộc yêu hoa, nên bông hoa đẹp mới đến nhanh chóng trở thành một phần trong văn hóa của họ. Mẫu đơn là bông hoa của Tháng Sáu ở Nhật Bản. Từ Trung Hoa và Nhật Bản, nó chu du sang tận đỉnh núi Olympus, tìm cho mình một cái tên.
Peony được đặt tên theo Paeon, một thầy thuốc học trò của Thần Y Asclepius trong thần thoại Hy Lạp.Ông được nữ thần Leto (mẹ của thần Mặt Trời Apollo) mách bảo cách lấy được chiếc rễ thần kỳ mọc trên đỉnh Olympus mà nó có thể xoa dịu được cơn đau của người phụ nữ khi sanh nở. Asclepius trở nên ghen tức với Paeon. Để cứu Paeon thoát chết vì sự phẫn nộ của Asclepius, thần Zeus đã biến ông thành một bông Mẫu đơn là biểu tượng của sự thịnh vượng, phồn vinh. Từ xa xưa, loài hoa vương giả này chỉ thuộc sở hữu của giới quý tộc giàu có ở Trung Quốc. Bông hoa quốc sắc thiên hương này từng rất được ưu ái qua nhiều triều đại, với mệnh danh “Chúa của muôn hoa”.

Ngày xưa, khi treo 1 bức tranh hoa mẫu đơn màu hồng hoặc màu đỏ trong nhà có nghĩa là gia đình đó có những cô gái trẻ đang độ xuân thì. Có khá nhìều sự tích về hoa mẫu đơn. Chẳng hạn, câu chuyện về Bạch Mẫu Đơn, nàng tiên rất giỏi về nghệ thuật tình ái, hay những tương truyền về Dương Quý Phi, một người đẹp nghiêng nước nghiêng thành đã dùng hoa mẫu đơn trang trí trong phòng để thu hút sự đam mê và thường xuyên lui tới của Đường Minh Hoàng. Thành phố cổ nổi tiếng Lạc Dương của Trung Quốc có danh tiếng như là trung tâm nuôi trồng các loài mẫu đơn. Trong lịch sử Trung Quốc, mẫu đơn của Lạc Dương luôn được coi là đẹp nhất. Hàng loạt các cuộc triển lãm hoa mẫu đơn cũng được tổ chức ở đây hàng năm. Mẫu đơn cũng là loài hoa biểu trưng của bang Indiana từ năm 1957.
Bạn có thể tìm mua hoa mẫu đơn ở Shophoa360. Chúng tôi chuyên cung cấp các dịch vụ hoa tươi đặc biệt là các loại hoa khai trương, hoa chia buồn, hoa sinh nhật. Với dịch vụ uy tín chúng tôi luôn được khách hàng lựa chọn làm đối tác

nguon:

Thứ Năm, 21 tháng 8, 2014

HOA LAI THEO Y MUON




               
Hoa lài dùng để ướp chè, ép tinh dầu sản xuất hoá mỹ phẩm, vào mùa mưa cây lài phát triển tốt, hoa ra nhiều nhưng lại không được giá. Mùa khô từ tháng 10 dương lịch trở đi, thời tiết ít mưa, khô hạn cây lài kém phát triển, hoa nở ít và trở nên khan hiếm, giá cả rất cao.
Những năm gần đây một số bà con ở vùng chuyên canh hoa lài đã biết xử lý để hoa ra trái vụ, mang lại hiệu quả kinh tế cao cho gia đình, điển hình là hộ anh Nguyễn Văn Tới ở ấp Bốn Phú, xã Trung An, huyện Củ Chi, TPHCM, anh không chỉ giỏi điều khiển cho hoa lài ra theo ý muốn, mà còn là người đi tiên phong trong việc nhân giống hoa lài cung cấp cho thị trường.
Ông Phạm Văn Thanh, Chủ tịch Hội nông dân xã Trung An, huyện Củ Chi cho biết: Hiện nay toàn xã có 37 ha trồng cây hoa lài, nếu giá cả cứ ổn định như bây giờ, thì người dân trồng hoa lài sống khoẻ re. Nhờ trồng hoa lài nhiều hộ trở nên khá giả.
Anh Nguyễn Văn Tới cho hay: Trước đây anh đã từng trồng lúa, do đất bị nhiễm phèn lúa kém năng suất, anh chuyển qua trồng mía, làm đường… nhưng cuộc sống vẫn không khá lên được. Đang loay hoay với 5 sào vườn chưa biết chuyển đổi cây gì, đầu năm 2000 tình cờ anh đi qua chơi nhà người bạn ở xã An Phú Đông, quận 12, thấy gia đình người bạn trồng hoa lài. Anh liền lân la học hỏi kinh nghiệm và đưa một ít giống về trồng thử. Lúc đầu anh trồng 1 sào, thấy cũng dễ trồng, so với trồng lúa và trồng mía thì nhàn và thu nhập cao hơn nhiều, thế là anh chuyển qua trồng hoa lài từ đó.
Theo anh Tới, hoa lài trồng được trên nhiều loại đất, nhưng tốt nhất là đất phù sa ven sông, hay đất sét pha cát nhẹ. Hoa lài rất cần nước nhưng không chịu được úng, nên chọn thế đất cao ráo, thoát nước.
Cách trồng: Cần làm đất tơi xốp rồi lên liếp, sau đó đào hố rộng 40 cm; sâu 30cm, trộn 2kg phân chuồng + 100g phân lân + 1 nắm vôi bột đổ xuống hố, lấp một lớp đất mỏng ủ từ 5 – 7 ngày.
Cây giống: Chủ yếu trồng bằng phương pháp giâm cành, hoặc chiết. Đặt cây giống xuống, lấp ngang mặt bầu. Trồng xong tưới nước luôn, ngày tưới 1 lần, trời mưa không cần tưới. Cây lài trồng sau 1 tháng tiến hành bón phân, liều lượng 25 kg DAP + 5 kg ure/1.000m2. Tháng thứ 3 bón 25kg DAP + 5kg ure + 5 kg phân kali, tháng thứ 3 bắt đầu ra hoa, ta tỉa bỏ. Tháng thứ tư mới bắt đầu thu hoạch hoa để bán, khi lài ra hoa đều, mỗi tháng bón một lần, năm thứ 4 bắt đầu bón phân NPK loại 20 – 20 – 15, phân bón tăng dần lên theo tuổi và tăng trưởng của cây.
Qua nhiều năm vật lộn với nghề trồng lài, anh Tới đã mày mò nghiên cứu điều khiển được hoa ra theo ý muốn và anh muốn chia sẻ một số kinh nghiệm: Hoa lài có rải rác quanh năm, nhưng muốn thu nhập cao cần tiến hành xử lý cho hoa ra đúng thời điểm mình muốn. Khác với điều khiển cây ăn trái, hoa lài không cần phải xiết nước, mùa khô 2 – 3 ngày tưới nước 1 lần, nếu tưới nhiều hoa bị hư. Khi cây hoa lài được 2 năm tuổi, cây đã sung, tiến hành xử lý như sau: đốn cây 30%, dùng phân bón (chủ yếu cân đối giảm đạm, tăng kali) ức chế sinh trưởng của cây. Cuốc xung quanh gốc, sau đó bón phân; phân bón gốc NPK 10 – 30 – 30; kết hợp xịt phân bón lá NPK 10 – 30 – 30, cứ sau bón 10 ngày cây sẽ nảy tược và ra hoa rất mạnh. Hiện nay mỗi ngày anh Tới hái được trung bình 8 kg hoa tươi, bán với giá từ 100.000 – 150.000đ/kg. Hoa thu hái được vẫn chưa đủ cung cấp cho thị trường.
Qua việc trồng, điều khiển hoa ra trái vụ, gia đình anh Nguyễn Văn Tới đã trở nên khá giả, cuộc sống kinh tế dần dần ổn định có mức thu nhập 30 triệu đồng/tháng. Ngoài ra anh còn có vườn ươm cây lài giống để cung cấp cho bà con nông dân.
Đi qua một con mương nhỏ chúng tôi sang thăm vườn của anh Tống Văn Rẫy, người cũng chuyển đổi 3 sào đất trồng mía sang trồng lài. Anh Rẫy tâm sự: Trồng lài cũng dễ, nếu so với trồng lúa thì trồng lài lãi gấp nhiều lần và rất nhàn. Từ hồi trồng lài cuộc sống dần ổn định và khá lên, con cái học hành yên tâm, không phải lo chạy tiền như trước nữa. Cùng suy nghĩ vối anh Rẫy, bà Nguyễn Thị Nhỏ, chuyển đổi từ 1,2 ha đất trồng mía sang trồng lài, mỗi ngày cũng thu được trên 10kg kg.
Anh Lê Tuấn Kiệt, chuyên gia kỹ thuật, có nhiều kinh nghiệm, cũng là người bao tiêu sản phẩm hoa lài cho hay: Trước đây anh ở quận 12, gia đình có bề dầy kinh nghiệm trồng lài, do quá trình đô thị hoá, diện tích trồng lài bị quy hoạch, giải toả. Anh chuyển qua xã Trung An, vừa tư vấn kỹ thuật cho các hộ trồng lài, vừa thu mua sản phẩm. Nếu tính tất cả các lái thu gom lại, một ngày thu mua trong xã từ 300 – 1.000 kg hoa lài tươi, rồi lại phân phát cho các công ty, các cơ sở ướp chè ở Lâm Đồng, TPHCM…
 
 
 
 

Kỹ thuật trồng và chăm sóc cây hoa lài

Kỹ thuật trồng và chăm sóc cây hoa lài
Cây hoa lài, tên khoa học Jasminum sambac Ait., là loại cây lâu năm, dạng cây bụi nhỏ, hoa màu trắng và có hương thơm. Ngoài tác dụng làm thuốc, hoa lài còn được sử dụng làm hương liệu trong các nhà máy chế biến trà xuất khẩu, tinh dầu chiết xuất từ hoa lài được dùng làm nguyên liệu trong sản xuất mỹ phẩm. Những năm gần đây, nhiều tỉnh thành trong cả nước đã đưa cây lài vào mô hình có hiệu quả kinh tế cao trong việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng.
 
 Cây hoa lài thích nghi khá tốt đối với điều kiện khí hậu, đất đai ở nước ta, nhưng sâu bệnh đã gây ra nhiều thiệt hại đáng kể, làm giảm hiệu quả kinh tế của việc trồng lài. Đối với cây hoa lài, việc phòng trừ sâu bệnh là một trong những yếu tố quan trọng quyết định năng suất và sản lượng hoa lài. Theo báo cáo định kỳ về tình hình sinh vật hại của Chi cục Bảo vệ thực vật (BVTV) thành phố, cây hoa lài thường bị một số sâu bệnh hại tấn công như: sâu đục bông, sâu ăn lá, bệnh tím bông, bệnh đốm lá, bệnh khô cành, bệnh chết bụi….
Thêm vào đó, việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật quá nhiều sẽ để lại dư lượng thuốc trong hoa lài, gây nguy hiểm cho người sử dụng. Vì vậy, xác định các loại sâu bệnh hại và xây dựng quy trình phòng trừ bệnh một cách hợp lý có thể giảm chi phí và lượng thuốc bảo vệ thực vật sử dụng như hiện nay.
Ngoài ra, trong kỹ thuật trồng lài thì bệnh hại là một trong những vấn đề chính ảnh hưởng tới sự phát triển diện tích cũng như thu nhập của người nông dân. Tuy nhiên, việc trồng cây hoa lài trong suốt thời gian qua được xem là trồng mang tính chất nông nghiệp nhỏ, chưa được qui hoạch một cách có hệ thống. Cũng theo thống kê của Chi cục BVTV, năm 2002, diện tích trồng lài của thành phố là trên 600 ha, nhưng đến tháng 07/2007 chỉ còn 435 ha.
Do đó, để góp phần vào việc phòng trừ bệnh hại trên cây hoa lài một cách có hiệu quả, chúng tôi xin giới thiệu về kỹ thuật trồng cũng như các kỹ thuật chăm sóc cây hoa lài để làm cơ sở xây dựng biện pháp phòng trừ tổng hợp.
 
1. Yêu cầu điều kiện ngoại cảnh
* Nhiệt độ: cây lài có nguồn gốc ở Nam Á, nhiệt độ thích hợp cho cây lài sinh trưởng là 20 – 330C, nhiệt độ thấp 8 -100C cây sinh trưởng kém.
* Ánh sáng: Lài là cây ưa sáng, do đó cần trồng nơi thoáng, rộng, không bị che bóng, cây mới cho năng suất cao và hoa mới thơm.
* Nước: Lài cần nước để sinh trưởng và ra hoa liên tục nhưng không chịu úng, do đó cần trồng nơi cao ráo, tưới tiêu thuận lợi.  
* Đất đai: Lài sống được trên nhiều loại đất khác nhau từ đất đồng bằng trung tính (pH từ 6,5 - 7) đến đất đồi núi hơi chua (pH từ 3,5 - 4); từ đất thịt nặng đến đất thịt pha cát, đất đồi núi nghèo dinh dưỡng, đất bạc màu nếu được chăm sóc tốt, bón phân, tưới nước đầy đủ vẫn cho năng suất hoa cao.
 
2. Thành lập vườn
* Thiết kế vườn: các vùng trồng lài ở thành phố Hồ Chí Minh thường là loại đất thấp, chân đất yếu, lại chịu ảnh hưởng của thủy triều qua hệ thống kênh rạch của sông Sài Gòn. Hàng năm vào mùa lũ, nhất là khi hai hồ Trị An và Dầu Tiếng xả lũ cộng với triều cường thì dễ bị ngập úng. Vì vậy bờ bao nên làm cao từ 1 – 1,2 m, mặt bờ bao rộng 1 m. Giữa bờ bao và kênh rạch bên ngoài có cống thoát và dẫn nước. Miệng cống nên làm nghiêng 45o và có nắp đóng mở tự động theo áp lực của mực nước để điều tiết mực nước trong mương. Bờ bao cần được gia cố hàng năm để tránh sạt lở.
* Chuẩn bị đất trồng: Tùy theo địa thế ở mỗi vùng mà làm đất khác nhau. Việc đào mương lên líp nên áp dụng ở những vùng đất ruộng địa hình thấp để nâng cao tầng canh tác: các mương chính quanh líp sát bờ nên làm rộng 0,8 - 1,0m và sâu 1,0 – 1,2 m; mương phụ rộng 0,6 – 0,8 m và sâu 0,8 m; mặt líp rộng 5 - 6 m.
* Khoảng cách trồng: Trồng theo hàng ngang trên liếp, mỗi hàng cách nhau 0,8 – 0,9 m. Trên mỗi hàng, cây cách cây 0, 6 – 0,8m. Mặc dù lài được cắt tỉa hàng năm làm tán cây nhỏ lại, nhưng nếu trồng dày hơn sẽ làm cho việc đi lại chăm sóc và thu hoạch bông gặp khó khăn.
 
* Giống trồng: Hoa Lài có nhiều giống: lài nút áo, lài trâu (hoặc lài dây), lài sẻ...
- Lài nút áo: hoa rất nhỏ, chỉ bằng nút áo.
- Lài trâu: 1 chùm chỉ có 1 hoa riêng lẻ, hoa to.
- Lài sẻ: 1 chùm có từ 5 – 12 hoa, hoa nhỏ hơn hoa của giống lài trâu. Để lấy hoa ướp trà nên trồng giống lài sẻ vì có năng suất cao và phù hợp với nhu cầu thị trường.
 
* Chọn và nhân giống: Cây lài rất dễ trồng, nhân giống chủ yếu bằng cách giâm cành. Khi giâm cành thì chọn những bụi lài phát triển tốt, không sâu bệnh. Trên những dây “lươn” bò ngang hoặc đứng, khoảng cách giữa các mắt lá gần nhau, dùng dao sắc cắt xéo thành những hom dài 15 - 20cm (3 đốt lá). Sau khi cắt khoảng 3 - 4 giờ, mặt cắt đã se lại, lúc này đem giâm hom vào bầu (hoặc trên mặt luống). Bầu gồm có đất mùn tơi xốp, trộn với phân chuồng hoai mục và tro trấu theo tỷ lệ 2:1:1. Sau đó cần thường xuyên tưới đủ ẩm cho hom nhanh ra rễ. Nên làm giàn che, chăm sóc khoảng 4 - 5 tháng, khi cây có chiều cao 15 - 20cm, lá ổn định thì đem trồng ra ruộng.
3. Kỹ thuật trồng và chăm sóc
* Thời vụ trồng: Lài có thể trồng quanh năm, nhưng tốt nhất là trồng trước và sau mùa mưa.
* Chuẩn bị hố trồng và cách trồng: Đào hố trước khi trồng 1 tuần, hố có kích thước 30 x 30 x 30 cm. Sau đó cho vào hố 1kg phân hữu cơ (đã được ủ hoai với nấm Trichoderma), 0,2kg lân và kali trộn đều với lớp đất mặt cho vào hố trồng.
Khi trồng, dùng cuốc móc đất lên và đặt bầu cây giống vào giữa, dùng dao cắt đáy bầu, sau đó rạch theo chiều dọc của bầu để kéo bao nylon lên và lấp đất kín phần cổ rễ. Trồng xong thì tưới đẫm và thường xuyên tưới đủ ẩm để lài sinh trưởng, phát triển tốt.

Khi cây lài còn nhỏ, cần tủ gốc giữ ẩm trong mùa nắng bằng rơm rạ khô. Biện pháp này cũng tránh được cỏ dại phát triển, đồng thời khi rơm rạ phân hủy sẽ cung cấp cho đất một lượng dinh dưỡng đáng kể.

* Tưới và tiêu nước: Mùa nắng nên thường xuyên tưới nước cho lài, vào mùa mưa cần thoát nước vào những tháng mưa nhiều, tránh ngập kéo dài sẽ dễ làm cho lài bị chết úng.
* Phân bón: Tùy theo giai đoạn sinh trưởng mà bón lượng phân khác nhau.
- Sau 10 ngày cây bắt đầu bén rễ, hồi xanh thì có thể sử dụng phân Humix (15g/16l) + Hydrophos (40ml/16l); phun 2 bình 16 lít/1.000 m2), sau đó phun định kỳ 1 lần/tháng.
- Năm tháng đầu, mỗi tháng bón 5kg urê với 5kg Super lân/1.000 m2.
- Từ tháng thứ 6 trở đi bắt đầu thu hái bông, bón mỗi tháng 20kg NPK (16-16-8) và tháng sau thay bằng 20kg DAP kết hợp phun phân Humix như trên sau mỗi đợt thu hoạch bông.
* Phương pháp bón phân: Bón xung quanh gốc theo tán cây, kết hợp xới xáo, làm cỏ và phủ đất lấp phân, tránh để phân bốc hơi hoặc bị rửa trôi.
* Đốn tỉa, tạo tán: hàng năm nên tiến hành đốn tỉa để cây được thông thoáng, sẽ hạn chế được sâu bệnh và cho hoa tập trung hơn. Nếu có điều kiện thì nên tiến hành 2 đợt:
- Đợt 1 (vào tháng 5-6): tiến hành đốn tỉa, tạo tán (đốn đau) bằng cách dùng dao, kéo sắc cắt toàn bộ thân cành cách gốc 30 – 40 cm, tỉa bỏ bớt các cành già, cành khô, cành sâu bệnh, bón thúc và tưới nước đủ ẩm để cây tiếp tục cho hoa.
- Đợt 2 (vào tháng 9-10): dùng dao, kéo sắc tỉa phớt cách ở vị trí cắt đợt 1 là 30 cm; sau đó bón phân và tưới nước đầy đủ, lài sẽ cho bông nhiều vào tháng 11-12 (thời điểm lài có giá cao).
Chú ý: Chỉ tiến hành khi trời nắng và sau khi cắt tỉa phải phun một trong những loại thuốc: Carbendazim, Thiophanate Methyl, hoặc các thuốc gốc đồng, … sẽ hạn chế được bệnh chết cành và chết bụi.
* Thu hoạch: Từ khi trồng đến khi cây lài được 5 tháng tuổi nên ngắt bỏ những bông ra sớm để tập trung dinh dưỡng nuôi cây. Cây lài 6 tháng tuổi thì bắt đầu cho thu hoa lứa đầu và có thể thu liên tục trong khoảng 7 - 10 năm mới phải trồng lại. Thời điểm thu hoa thường bắt đầu từ 10 giờ sáng nhưng tốt nhất là từ 3 - 6 giờ chiều vì sẽ cho nhiều hương nhất. Khi thu hoạch nên chọn hái những nụ hoa to, có màu trắng tinh như màu giấy trắng./.
                                                                                      
                                                                             KS Vũ Khắc Chung
                                                     Chi cục Bảo vệ thực vật thành phố Hồ Chí Minh

http://www.sonongnghiep.hochiminhcity.gov.vn/tonghop/lists/posts/post.aspx?Source=/tonghop&Category=Tr%E1%BB%93ng+tr%E1%BB%8Dt&ItemID=85&Mode=1

Thứ Tư, 20 tháng 8, 2014

Cây Dạ Lý Hương

Cây Dạ Lý Hương hay còn gọi là Dạ Lai Hương, có nguồn gốc từ Tây Ấn mọc phổ biến ở vùng hạ nhiệt đới. Cây Dạ Lý Hương mọc thành bụi dày, gốc hóa gỗ, cành và nhánh vươn dài, sống dựa. Lá Dạ Lý Hương đơn thuôn dài cuống ngắn, mọc cách, màu xanh nhạt, nhẵn bóng. Cây Dạ Lý Hương ra hoa rất nhiều, tập hợp thành chùy ở đầu cành hay nách lá. Hoa màu trắng, thơm ngát về đêm. Cánh tràng hợp thành ống dài, trên loe thành phễu chia thành năm thùy trái xoan nhọn.

 

Cây Dạ Lý Hương rất dễ trồng thích đất hơi ẩm có pha cát, độ acit 6.6 - 7.5, cây mọc nhiều chồi khỏe và ra hoa gần như quanh năm. Cây được nhiều người ưa chuộng vì mọc dày, lá thưa, không đòi hỏi nhiều về đất trồng.

 

Cây Hoa Dạ Lý Hương có hương thơm vào ban đêm, thật ra vào đêm hay ngày, loại hoa này đều thơm cả. Có lẽ, về đêm, đa số các hoa khác đều bận .... ngủ nên không khoe hương sắc, còn Hoa Dạ Lý Hương vì sắc khiêm nhường nên đã tỏa ra hương thơm ngào ngạt để người đời biết tới mình chăng? Mùi hoa ngọt và nồng, người thích nói thơm người không thích thì chê nồng.


Cây Hoa Dạ Lý Hương còn được là nguồn cảm hứng lớn cho các thi sĩ, văn nhân Việt Nam sáng tác.

Cây hoa Dạ Lý HươngCây hoa Dạ Lý Hương
Cây hoa Dạ Lý HươngCây hoa Dạ Lý Hương
Cây hoa Dạ Lý Hương
 
QUA MÙI HƯƠNG DẠ LÝ
  Một sáng mùa Đông năm nay, tôi ra vườn xem lại hoa cảnh, bất ngờ đến đau khổ khi thấy chùm Hoa Dạ Lý Hương héo xèo sau đêm lạnh. Ôm chậu cây vào nhà mà tôi tiếc ngẩn tiếc ngơ, rồi tự trách mình sao không chú ý hay siêng năng một chút, bưng chậu hoa vào nhà mấy hôm trước để ủ ấm cho hoa, để bây giờ hoa héo như thế nầy.Tôi lại chăm sóc, tưới nước để hy vọng mấy ngày sau, cây hoa không còn sống vì bị tím tái bởi trời lạnh dưới 0 độ C chỉ một đêm trước, trở lại bình thường. Tôi hoang mang lắm khi thấy cảnh đọan trường nầy.
 
Tôi đã gắn bó với Hoa Dạ Lý Hương từ những năm dậy thì nơi quê cũ.Những đêm tối trời, hoa không tỏa hương thơm bằng những đêm trăng sáng. Đêm đêm ngồi học bên chiếc đèn dầu, thỉnh thoảng tôi nghe tiếng súng vọng từ xa, rồi tiếng súng gần lại làm tôi lo sợ. Qua chấn song cửa sổ, ánh hoả châu rọi vào sáng rực làm nỗi lo sợ tăng thêm. Đêm không trăng hay đêm đầy trăng sáng tôi đều có cảm giác cô đơn lạ lùng. Trong cảm giác ngại ngùng và khiếp sợ chiến tranh, tôi lại thấy an lòng và ấm lòng hơn qua mùi hương Dạ Lý. Tôi thường đứng lên, cao hơn tầm nhìn qua cửa sổ, nhìn những cụm hoa nhỏ li ti, đậu thành chùm, không đơn độc vì như luôn ghé sát vào nhau, tỏa một mùi hương bát ngát. Tôi nói mùi hương bát ngát chắc không sai vì mùi hương vào nhà, tỏa rộng trong một không gian không rộng mà luôn lẻ loi bởi chỉ một mình tôi trên chiếc bàn con đã cũ .Hương đậu trên vai, hương bám đầy trên tóc, hương bay vào tận bên trong, đánh thức Má tôi qua giấc ngủ ngắn, sớm, từng đêm.
 
Má tôi thường nhỏm dậy, bước ra gần bên tôi và thường hỏi một câu lấy lệ: Dạ Lý Hương nở rồi hả con? Má nghe mùi hương …, rồi Má vào ngủ lại. Im lìm, không xao động, không suy tư, tôi nghe mùi hương bay ra rồi trở lại, đi xa rồi quay lai gần. Trong mùi hương đó tôi an lòng ngồi xuống bàn, lật sách vỡ ra và ôn thi cuối cấp 2.
Tôi nhớ rất rõ, không sai một ly, chính Má tôi đã trồng cây hoa đó. Má xin ở đâu không biết, đem về trồng ngay cửa sổ, bên ngoài bàn học của tôi và nói vui: Khi nào hoa nở là con thi đậu, biết đâu mùi hương làm con tỉnh táo lúc học bài. Mùa Xuân qua đi, mùa Hè trở lại, cây Hoa Dạ Lý lớn thêm, đẹp và dễ thương như người con gái dậy thì mới tắm xong, giản đị cầm cây lược chải tóc và mỉm cười trước tấm gương con. Qua gần ba tháng gần gũi với hương hoa, gần một năm ôn tập tôi thi đậu. Má tôi mừng lắm vì năm đó đề thi khó khăn hơn các năm trước, nên ít người thi đậu như tôi.
Từ đó, khi tôi cầm cái chứng chỉ (tạm thay bằng), tôi lại nhớ thật sâu mùi hương cũ. Mỗi lần thấy Má tưới nước cho hoa, tôi lại miên man một ý nghĩ ngộ nghĩnh là Má tưới cho cuộc đời mình thêm xanh, thêm mát. Rồi tôi lên tỉnh học, bỏ lại cây Hoa Dạ Lý đơn độc một mình những đêm tối trời hay những đêm đầy trăng có tiếng súng đêm và lâu lâu có ánh hỏa châu rọi qua cửa sổ. Má tôi nói hình như ngày con đi, cây Dạ Lý Hương coi bộ cũng buồn mà như héo dần đi dù Má tưới siêng hơn nhiều lắm! Cô bạn hàng xóm mới tuổi mười ba mà cũng xí xọn chen vô: Chắc Hoa Dạ Lý nhớ anh mà! Tiếc quá, hoa nầy không ép được. Nếu ép, được em sẽ ép gởi anh một tràng luôn! Trong tận đáy lòng, những câu nói đùa của Má tôi, hay câu trêu ghẹo của người em hàng xóm cứ làm tôi thơ thẩn mãi. Tôi lên tỉnh học, trọ trong căn phố nhỏ, có cửa sổ sáu chấn song dọc, giống y như cửa sổ nhà tôi , nhưng không có mùi hoa Dạ Lý. Những đêm trăng sáng, tôi đứng lên, cũng cao hơn tầm nhìn lúc ngồi, nhớ về một loài hoa đã đưa tôi vào một rừng kỷ niệm mà khi đã lạc vài rồi thì khó bề trở ra bình yên. Tôi như bị trọng thương khi nhớ về loại hoa nầy: hoa nhỏ thành chùm, hương bay ngào ngạt những đêm trăng sáng mùa Hè!
Mùa hè có tiếng ve, có màu Phượng đỏ, nhưng không để lại trong tôi những kỷ niệm đầy tràn, ngập ứ như hoa Dạ Lý, bởi trong đó có gương mặt Má tôi, có bàn tay của Người tưới nước mỗi chiều và có hàm răng trắng có hai chiếc khễnh của cô bạn hàng xóm cười trêu tôi mỗi khi nhắc về cây hoa Dạ Lý.
Thế rồi hoàn cảnh đẩy đưa, vận người đưa đẩy, tôi xa luôn quê nhà, xa luôn cái bàn học con con cạnh cửa sổ đêm đêm được dỗ dành bởi một loài hoa quen thuộc, không vương giả, không quê muà, chỉ đủ làm xao xuyến lòng tôi khi nhớ đến.Tôi không còn nghĩ nhiều về Dạ Lý bởi tôi tất bật với nợ nần cuộc sống. Tôi không quên và chắc không bao giờ quên, nhưng tôi không còn nặng lòng với mùi hoa cũ, cả khi hay tin cô bạn hàng xóm lúc theo chồng cứ đòi cho được một chùm hoa Dạ Lý trong lẵng hoa cô dâu. Trong tôi, hương Dạ Lý không bay mất, nhưng không hiện ra, không dẫn tôi vào rừng kỷ niệm như ngày trước.
Cho đến đêm tôi ra phi trường, chờ đợi máy bay cất cánh đưa tôi về một nơi xa lạ ở chốn quê người, trong tiếng lao xao cười nói và từ giã nhau, bỗng Má tôi hỏi, qua bên đó có Dạ Lý Hương không con? Tôi như bị ai đâm một nhát dao bên lưng, bên phải, nơi Má tôi đứng. Tôi hoang mang và như bị nghẹn, không biết nữa, Má à! Má tôi thêm: tội nghiệp con nhỏ, nó thương con lắm, hồi đám cưới, nó đòi cho được hoa Dạ Lý Hương ..., cũng may, nó có hai con rồi, hạnh phúc! Tôi như không nghe được gì nữa ! Tôi phang một câu lãng xẹt, cũng may, phần cuối Má tôi nghe rõ,Kệ nó Má ơi! Con chỉ nhớ Má khi có và khi không có Dạ Lý Hương thôi ...
Qua bên nầy, tưởng tôi quên bẵng vụ Dạ Lý Hương rồi vì mới qua đây hơn một năm thì Má tôi mất ở quê nhà. Một người bạn về Việt Nam, không biết khéo léo lẩn tránh thế nào mà mang đươc qua chừng mười hột hoa Dạ Lý trong túi an toàn. Chị hào phóng cho tôi đúng ba hột gọi là chút kỷ niệm quê huơng . Tôi gieo hột mà thầm vái Má phù hộ cho hoa Dạ Lý nẩy mầm thành cây hoa lớn. Lời khẩn cầu có hiệu quả nên tôi được hai cây. Tôi trồng hoa trong chậu, để cạnh cửa sổ để những đêm sáng trăng, mùa Hè, tôi lại nghe mùi hương cũ, trong đó có Má tôi cặm cụi tưới nước và có hàm răng con nhỏ nhà bên trắng bơng, cười nửa miệng. Mỗi mùa Đông đến, tôi vẫn mang hai chậu hoa vào nơi kín đáo để tránh hơi lạnh và sương muối làm chết cây!
Thế mà hôm qua, tôi quên một chút và chỉ một đêm ở ngoài trời, cây hoa Dạ Lý không còn nữa! Hoa Dạ Lý tôi có thể bỏ công tìm lại được, nhưng trong sâu thẳm tâm hồn, tồi thấy như mình phạm một lỗi lầm to tát với Má tôi, Người đã ươm hoa trong lòng tôi, nuôi nấng, dạy dỗ, an ủi khuyến khích tôi qua mùi hương Dạ Lý, từ khi tôi mới lớn trong nước đến khi tuổi sắp về chiều, ở một nơi xa bên ngoài Tổ quốc.
Mùa hè nầy nhất định Dạ Lý Hương sẽ nở bên khung cửa sổ và tỏa ngát hương trong lòng tôi .
TRẦN KIÊU BẠC
         Dạ Lý Hương

Cái Duyên Nam Bắc -

Cái Duyên Nam Bắc - 
Tác giả Nguyễn Hữu Huấn
 
Khi ngồi viết những giòng chữ này thì vợ cháu đang ngủ say sưa trên giường. Nhìn đôi chân dài thườn thượt của bà thò ra khỏi chăn, tự nhiên cháu bật cười. Thì ra vợ cháu cũng thuộc loại…chân dài ra phết, cao xấp xỉ 1,70 mét chứ chẳng phải chơi. 

Năm ngoái gặp lại đám bạn cũ cùng binh chủng, trong lúc chụp ảnh chung bỗng có thằng la lớn : „Chúng mày ơi ! đứng bên cạnh bà này chắc ông phải kiễng chân lên mời xứng!“, làm vợ cháu ngượng chín người. Nghe nói bên Việt Nam bây giờ người ta tung hô tán tụng „những cô gái chân dài“ dữ lắm, làm phim, lên ảnh, quảng cáo rùm beng, làm các cô cứ tưởng mình là cái rốn của vũ trụ không bằng. Có điều lạ là hầu như các mợ toàn là gốc miền Bắc, nói năng giọng Bắc, nhìn đời với con mắt người Bắc và cư xử thì cứ „tự nhiên như người Hà Nội“.(Bật mí cho các cụ nhé: bây giờ thì đa số các mợ Hà Nội chính gốc đã thi nhau làm „con chim đa đa“ bay qua xứ khác lấy chồng xa hay đi kiếm cơm hết ráo, còn lại toàn là gốc Hà-Nam-Ninh hay Thanh- Nghệ-Tĩnh lên Hà Nội lập nghiệp). Hay là ông Trời sinh ra người càng ở vùng phương Bắc thì da càng trắng, mũi càng cao và chân càng dài, cứ nhìn mấy ông Tây bà Đầm là biết ngay. Thế nhưng ”bà già chân dài” vợ cháu lại là dân Nam kỳ tuốt luôn tận phương Nam, là thứ Nam kỳ chính hiệu con nai vàng, quê Cái Bè, nội Cái Răng, ngoại Cái Dồn. Hoá ra „mũi cao, chân dài“ đâu phải độc quyền của các mợ Bắc Kỳ 75, các mợ nhờ „tàn dư đế quốc“ nên chỉ mới xuất hiện sau này thôi, chứ ngay trong „thời kỳ chiến tranh“ cách đây mấy mươi năm thì “mũi cao, chân dài” như Nam kỳ vợ cháu đã nhởn nhơ đầy đường. Đúng là một cọng giá thời kỳ chiến tranh vẫn hơn một gánh rau muống thời kỳ hoà bình đổi mới !
 
Bố mẹ cháu sinh cháu ra tại miền Bắc, học hành và lớn lên cùng với gia đình trong miền Nam, để rồi trưởng thành tận ngoài miền Trung. Từ những tính chất của ba miền đã hợp lại tạo nên cháu thành một thứ “hẩu lốn” như canh chua nấu với...rau muống, giá sống ăn với...bún riêu,  nhậu bia với ché mà lại chấm với ...xì dầu. Thế nhưng cái bản chất Bắc kỳ vẫn là cái cốt lõi trong con người cháu từ lúc sơ sinh, vẫn Bắc kỳ rau muống mắm tôm, Bắc kỳ truyền thống, Bắc kỳ muôn thuở...Nhưng ông Trời oái oăm lại sai ông Tơ bà Nguyệt xe duyên cháu làm thằng tù khổ sai chung thân cho một bà vợ Nam kỳ quốc. Lạ thật ! Duyên hay nợ đây Trời !
 
Hồi còn bé, thú thật cháu chẳng ưa gì Nam kỳ. Còn ghét, còn hận nữa là khác. Chuyện cũng dễ hiểu thôi : lần đầu cắp sách đến trường tiểu học Bàn Cờ ở quận 3, Sài Gòn, chỉ có cháu với một thằng nhô nữa là Bắc kỳ. Thằng này có hàm răng đưa hơi xa ra phía trước, mà văn chương Bắc kỳ gọi là “vẩu”, còn Nam kỳ gọi đơn giản và rất tượng hình là cái “bàn nạo dừa“. Bố nó (không vẩu tí nào) rất thân với bố cháu (cũng chẳng có bàn nạo dừa) vì cả hai gia đình cùng đi chung chuyến tàu “há mồm“ vào Nam năm 54. Hai thằng Bắc kỳ con nhất định ngồi cạnh nhau tạo thế liên hoàn “dựa nhau mà sống“ trong cái lớp học 27 trự Nam kỳ con. Bọn chúng hè nhau trêu chọc, ăn hiếp hai đứa chúng cháu. Mỗi lần ra chơi hai thằng Bắc kỳ con luôn tìm chỗ ít người mà đứng để khỏi nghe bọn Nam kỳ đọc thơ chọc quê chửi bới. Thằng Vọng, đứa đầu xỏ và to con nhất đám (bây giờ đang ở Canada) leo lên cây vú sữa giữa sân, đọc thơ rang rảng:
“Bắc kỳ ăn cá rô cây, ăn nhằm lựu đạn...chết cha Bắc kỳ” Một thằng khác sẵn giọng phụ họa :
Có cái thằng nhỏ nó “đao“ làm sao
Lỗ đ. nó dính cái cọng “rau”, Người ta ai mà kỳ như “dzậy” ?
Thế là cả bọn đồng loạt chỉ ngay vào bọn cháu rồi rống lên : “Thôi rồi ! Bắc kỳ, Bắc kỳ !”
Cháu tủi thân lắm ! Ôi thôi ! buồn da diết, buồn vô biên, buồn phát nghiền !
 
Về nhà hỏi mẹ tại sao gia đình mình lại vào đây làm quái gì để chúng nó trêu con suốt ngày. Mẹ cháu rướm nước mắt, xoa đầu cháu giải thích đơn giản :
-        Tại vì người ta đánh nhau quá nên gia đình mình phải  “ri cư “ vào đây con ạ ! Thôi chịu khó đi con, mẹ biết làm sao bây giờ !
Nào đâu đã hết, chúng nó còn hè nhau tụ tập trước cửa nhà cháu. Mẹ cháu cầm chổi lông gà ra đuổi. Chẳng đứa nào sợ, trái lại còn tru tréo to hơn. Chợt thấy hàm răng của mẹ cháu nhuộm đen ngòm và bóng loáng, thế là chúng nó cứ thế mà gào :
“Bắc kỳ ăn cá rô cây, ăn nhằm cục c. , hàm răng đen thùi ”
 
Trong gia đình, chỉ có bố cháu là chẳng thằng Nam kỳ con nào dám giỡn mặt. Có lẽ nhờ khuôn mặt có oai hay nhờ đôi mắt nghiêm khắc của ông, mà chúng sợ một vành không dám trêu chọc một lời ?
Ngày tháng qua mau, cứ thế mà đám Bắc kỳ ”ri cư”, trong đó có gia đình cháu, vẫn sống phây phây trên mảnh đất Nam bộ lạ hoắc nhưng trù phú này. Những cảnh chọc quê dần dần biến mất, bạn bè nhiều hơn, trong đó dĩ nhiên không ít đứa Nam kỳ. Đứa Sài Gòn chính tông, đứa Sa Đéc, đứa Vĩnh Long, đứa Mỹ Tho, Cần Giuộc...Nhưng đứa nào cũng chửi cháu là ”thằng Bắc kỳ lắm mồm”. Không ”lắm mồm” chứ để chúng mày ăn hiếp ông hả ? Nghĩ cho cùng, không ”lắm mồm” thì đâu còn là Bắc kỳ nữa ! Thứ ”lắm mồm” được việc, ”lắm mồm” nghe vẫn bùi tai, ”lắm mồm” dễ mến, thiếu thì nhớ, vắng thì mong, ”tay chơi” nhưng vẫn ”chân tu”, gái Nam kỳ cứ thế mà...”lắc lư con tàu đi”. Càng lớn lên cháu càng khoái Miền Nam, khoái Sài Gòn, nơi dễ có nhiều bạn, mà bạn lại không tồi. Nơi đó có dừa xiêm dzú sữa, có chè đậu xanh bột báng nước dừa, có bánh bèo trét mỡ trắng phau phau, có nước mắm đường ngọt lịm, có cá bống trứng kho tiêu, có trái cóc ngâm đường cắm que cà rem chấm muối ớt, có quán cơm bà Cả Đọi, có cả những con đường hẻm ngoằng nghoèo dẫn đến nhà ...chị Tình. Miền Nam và Sài Gòn thật trong veo khoáng đạt, không tự tôn như cái Bắc kỳ đã có sẵn từ bẩm sinh trong bụng cháu, không rườm rà ”màu mè ba lá hẹ”, chân thành thật thà, thẳng ruột ngựa, không làm vẫn có ăn, chơi xả láng sáng về sớm, để rồi vẫn cứ yêu người, yêu đời. Có lẽ cũng cùng một cảm nhận như thế nên đám Bắc kỳ ”ri cư” chúng cháu mới vào Nam chỉ có cái quần xà loỏng trên ”tàu há mồm” đã lợi dụng thời cơ hè nhau tung ra dành dân chiếm đất khắp cõi Nam bộ, mà lại ăn nên làm ra trên mọi lãnh vực, trong đủ tầng lớp xã hội, nhất là vùng Sài Gòn Gia Định và các vùng phụ cận, chỗ nào làm ăn ngon lành thuận lợi là mấy mợ Bắc kỳ rau muống sang tay hàng loạt, ngoại trừ phía bên trong chợ Bến Thành và vùng Chợ Lớn, vì chẳng thèm ”kèn cựa” với các chú Ba. Đã bảo rồi mà...: ” Bà đã nàm thì nàm thật chứ không thèm nàm nấy ne, nàm nấy nệ !” Từ sau năm 75 thì Bắc kỳ lại càng ăn trên ngồi trốc, các cụ không tin cứ mở cái máy ”dzô tuyến chuyền hình” hay cái ”ra dzô” ra thì thấy liền, các ”xướng ngôn dziêng” hầu như ”chăm phần chăm” đều là Bắc kỳ, không cậu thì mợ. Còn các mợ tiếp dziêng ”E Việt Nam”, mợ nào mợ nấy đều khoe ”em người Hà Lội” hết ráo ! Chẳng biết tại ”dziêng dzáng” hay ”phe đảng” ?
 
Bố cháu trái lại, cái chất Bắc kỳ đã ăn vào máu, thấm vào cốt lõi xương tủy của ông từ bao đời, nhất quyết bắt anh em cháu phải thi vào trường Chu Văn An (CVA), con em gái phải thi bằng được vào trường Trưng Vương, toàn là những trường nổi tiếng từ miền Bắc, kéo theo các thày cô ”ri cư” vào Nam. Phần vì bố cháu là cựu học sinh trường Bưởi, phần vì ông cũng có chút thiên kiến và ít tin tưởng vào các trường miền Nam như Petrus Ký hay Gia Long.
”Mình dân Bắc thì phải học trường của người Bắc, chúng mày đừng có bàn với bạc lôi thôi !”, bố cháu phán cứ như đinh đóng cột. Mà lạ thật ! Vào học Chu Văn An mới thấy toàn đám học sinh Bắc kỳ, le que vài trự Nam kỳ lạc lõng vô duyên, đếm chưa đủ mười đầu ngón tay đã hết đứa Trung kỳ. Cho đến các thày đa số cũng lại Bắc kỳ nốt, từ thày hiệu trưởng Dương Minh Kính đến thày thi sĩ Vũ Hoàng Chương. Còn bên Petrus Ký thì ngược lại, hầu hết Nam kỳ. Hóa ra vung nào thì vẫn cứ đi tìm nồi nấy, hay hoặc giả có chính sách của chính quyền thời đó hay không ? Chẳng thành vấn đề, chỉ biết bọn Nam kỳ Petrus Ký châm biếm đổi tên Chu Văn An thành ...Chết Vì Ăn ! Cháu tức máu trả đũa, rằng chúng mày ghen ông vì chúng mày chiêm ngưỡng các em Bắc kỳ Trưng Vương mà thèm nhỏ dãi, nhưng sờ vào thì chúng mày sẽ thành con dế mèn để các em Bắc kỳ thọc cọng nhang sau gáy thổi quay vòng vòng ! Tức quá, mấy trự Petrus Ký chỉ biết ”ngậm ngùi” đồng ca bản ”Khúc nhạc đồng quê” rằng thì là :
”Quê hương tui Bắc kỳ nhào dzô quá trời
Bên bờ sông bên bờ ao..trồng rau muống !”
 
Hay cũng là :        ”Quê hương tui cái mùng mà kêu cái màn !....”
 
Thôi thì cũng đúng thôi ! Mấy trự Nam kỳ hay Trung kỳ chỉ cần nghe một mợ Bắc kỳ uốn éo ra chiêu vài đường lưỡi thì đã nhũn như chi chi, mắt trợn ngược, mồm há hốc, quên luôn cả tên họ mình. Chỉ có trai Bắc kỳ mới trị nổi các mợ Bắc kỳ thôi ! Này nhé, các cụ cứ chịu khó nhìn chung quanh đi, cứ một trăm trự Nam kỳ chưa chắc có được một trự vớ được một mợ Bắc kỳ. Tìm mỏi con mắt mới có một trự ”diễm phúc” bế được một mợ mang về nhà thì bảo đảm suốt cuộc đời còn lại chỉ biết bốn chữ ”gọi dạ bảo vâng”, răm rắp tuân lệnh bà, chẳng bao giờ còn nhìn thấy mặt trời, mặc dù suốt ngày ngửa mặt than Trời ! Đấy mới chỉ là các mợ Bắc kỳ 54 thôi nhé ! Gặp cỡ các mợ 75 hay các mợ quê quán Hà Đông hay Bắc Ninh ”...cầm roi dạy chồng” thì ôi thôi ! cái te tua nó kéo luôn theo cả tông ti họ hàng, suốt đời hưởng ”cái thú đau thương”, nghe chửi cứ tưởng nghe...hát. Hỡi các chú Nam kỳ hậu sanh: chớ chơi dại! Đừng nghe ông Phạm Duy hát bài ”Cô Bắc kỳ nho nhỏ” mà ham, lừa đấy ! Gặp Nam kỳ thì cái ”nho nhỏ” kia sẽ phình to hơn cái vại, mà cái vại có nanh ! Ngược lại, một cậu Bắc kỳ rau muống quơ được một cọng giá Nam kỳ ”đem về dinh” –vụ này nhiều lắm- thì cứ như ”rồng thêm cánh”, như ”diều gặp bão”, như lái ô tô không cần Navigation... cả đời có người ”nâng khăn sửa túi” không công. Hóa ra hôn nhân cũng có quy luật đấy chứ :
 
Chồng Bắc kỳ + vợ Bắc kỳ = Vợ chồng đề huề, nếu biết cách
Chồng Bắc kỳ + vợ Nam kỳ = Chồng phây phả, phè cánh nhạn.
Chồng Nam kỳ + vợ Bắc kỳ = Chồng te tua, lưng còng.
 
Nhưng đã là ”luật” thì bao giờ cũng có ”luật trừ”, nghĩa là cháu không dám vơ đũa cả nắm đâu, với lại cháu chỉ lợi dụng cái ”tự do ngôn luận” trên xứ người, xin bàn bậy vài chữ ngu ngơ để các cụ trong lúc ”trà dư tửu hậu” đem ra trước là mua vui, sau là cho bớt chút căng thẳng trong cái cuộc đời ... đen như mõm chó này. Xin lỗi các cụ, nẫy giờ nói loanh quanh mãi, bây giờ cháu xin trở lại chuyện của cháu.
 
Bố cháu nghiêm khắc lắm và dĩ nhiên giáo dục con cái theo truyền thống Bắc kỳ. Đã có gốc có ngạnh, có cả sự nghiệp bề thế trong Nam nhưng vẫn...thờ cơm Bắc kỳ, vẫn lễ phép Bắc kỳ, vẫn giữ giọng nói Bắc kỳ và thậm chí còn ra lệnh, dâu rể cũng phải...Bắc kỳ ! Mỗi lần cháu dẫn bạn gái về nhà, bố cháu liếc mắt một cái là biết ngay cô nàng Bắc hay Nam. Có một ông bố tinh đời như thế đôi khi lại...phiền. Với một mợ Bắc kỳ, bố cháu thân mật tươi cười ”Cháu vào nhà chơi ! bố mẹ cháu khỏe mạnh không ?”, cứ làm như quen biết từ lâu vậy. Gặp cô ả Nam kỳ thì lạnh nhạt khinh khỉnh ”Không dám, chào cô !” Cô bạn gái Nam kỳ mặt nghệt ra thưởng thức văn chương Bắc kỳ, còn cháu nghe qua mà thốn từ dạ dầy đến ruột non. Nghe Bắc kỳ chê, nghe Bắc kỳ chửi, mà cứ tưởng mình đang nghe thơ phú hay nghe nhạc êm dịu mới chết chứ ! Nếu quen cô nào Trời sinh có mấy cái vòng hơi...sexy một tí, Bắc cũng như Nam, cháu phải dấu biệt vì sợ lựu đạn nổ tung trong nhà. Điệu này coi bộ hơi khó sống. Thôi thì Bắc Trung Nam cũng một nhà, hạnh phúc lứa đôi đâu phải do thằng hàng xóm, mà là do chính mình. Thế rồi cháu đã từng hạ quyết tâm với bố: lấy vợ Bắc kỳ, cho phải đạo làm con. Em nào Bắc kỳ, rước về nhà cho bố xem mặt mà bắt hình dong (cứ như đi mua gà chọi). Em nào Nam kỳ, điểm hẹn sẽ là mấy ống cống dưới gầm cầu xa lộ Đại Hàn.
 
Thiên bất dung nhan! cháu lại phải lòng một ả Nam kỳ, Nam kỳ không lai giống, cái thứ Nam kỳ Gia Long kên kên xí xọn. Hồi đó cháu đi lính Không Quân của miền Nam, thấy đám phi công trời đánh đa số cũng đều là Bắc kỳ, chẳng hiểu tại sao? Dân Nam kỳ cũng có, Trung kỳ lại càng ít hơn, nhưng đứa nào cũng có ...”cái mồm Bắc kỳ”. Cháu còn nhớ khi thi gia nhập Không Quân, phải đủ ký lô, đủ kích thước, lục phủ ngũ tạng bị khám tuốt luốt, phải trần trùng trục như con nhộng rồi nhẩy lên nhẩy xuống cho mấy ông bác sĩ ...”vạch lá tìm sâu”, chứ đâu có thi tuyển đứa nào ”lắm mồm”! Thế mà thằng nào thằng nấy đều có cái ”chứng chỉ lắm mồm” cao hạng dấu kỹ trong túi áo bay. Một hôm đang trực phòng hành quân thì ông xếp (ông này Nam kỳ quốc) hỏi có thằng nào rảnh ra phi đạo chở con cháu gái vợ của xếp theo tàu từ Sài Gòn ra Nha Trang đem về nhà bà vợ đang có bầu sắp đẻ. Tưởng đi biệt phái hành quân chứ cái màn này cháu khoái lắm : ”Chuyện nhỏ mà xếp, có tui ngay !” Ông xếp của cháu cũng chẳng vừa, nhìn thấu tim gan thằng đàn em : ”Lẹ lẹ lên coi, tàu sắp đáp rồi đó, sách tao mày học hết còn dư có cái bìa, nhưng mà từ từ thôi nghe cha nội, lạng quạng con mẻ chửi tao thấy bà !” Lúc đó cháu đâu có ngờ rằng, cái chuyện nhỏ như mắt muỗi này lại thành chuyện lớn, lớn khủng khiếp, ảnh hưởng đến hết cả cuộc đời cháu !
 
Cô cháu gái ông xếp không có cái dạng ”ngực tấn công, mông phòng thủ” như trong ”xi la ma”, thế mà ngay từ phút ban đầu cháu đã bị dáng ngay tim một cái búa tạ chình ình chứ chẳng phải tiếng sét tầm thường.
”Cô đi máy bay có mệt lắm không ?”
”Dạ !”.
”Ra thăm cô dượng hả ?”
”Dạ !”. 
”Cô lên xe đi, tôi đèo cô về”
”Dạ !”... 
 
Chèng đéch ơi ! sao mà cụt ngủn cộc lốc thế bà nội ? Cái gì cũng ”dạ” hết ráo thì cháu biết đâu mà rờ ! Đúng gái Nam kỳ ! Chợt nghĩ, không biết bà dzợ xếp tới giờ này có còn ”ngây thơ”, ”dạ dạ” với xếp như dzậy nữa hay không ? Xếp cháu đang ở San José, nếu xếp có đọc những giòng chữ này thì xếp cũng bỏ qua dùm vì thằng em đã thuộc lòng trọn bộ sách của xếp từ khuya rùi !
 
Từ đó cháu với nàng rủ rỉ rù rì cùng nhau đánh vần mấy chữ ”hình như là tình yêu”. Cuộc tình của cháu với nàng êm ả như quả lắc đồng hồ treo trên tường phòng khách nhà cháu, nhưng mỗi khi nghĩ đến bố cháu thì quả lắc đồng hồ bỗng ngất ngư như bị đứt dây thiều. Thương quá, cháu đánh liều, ”mấy sông anh cũng lội, mấy đèo anh cũng qua”, chuyến này nhất quyết không chui ông cống gầm cầu xa lộ, mà dắt nàng về nhà trình diện bố. Bố vẫn khinh khỉnh:
”Không dám ! chào cô”. Nàng vui tính: ”Ba anh coi ngầu quá hén!”, cháu tỉnh bơ: ”Không ngầu sao làm bố anh được !”
 
Thật ra thì bố cháu đâu có ghét Nam kỳ, ông chỉ phàn nàn rằng dân Nam kỳ được trời đãi, cho sống trên mảnh đất mầu mỡ phong phú, không làm vẫn có ăn, mà lại ăn ngon nữa, nên có tính lè phè, hoang phí, không chăm chỉ hạt bột, không cần cù tiết kiệm như Bắc kỳ. Ông chỉ vì thương con, lo cháu lấy nhằm cô vợ Nam kỳ cả ngày chỉ biết...phè cánh nhạn, ăn no lại nằm, thì con cưng của ông sẽ thành thân trâu ngựa suốt đời. Còn mẹ cháu, vốn dĩ nhà quê răng đen mã tấu bảo rằng, nghe Nam kỳ nói chuyện cứ tưởng nghe tiếng nước ngoài, chỉ hiểu một nửa ! Cháu cãi lại, Bắc kỳ cũng có  khối đứa lười, lười như..cháu đây là hết mức rồi ! Một hôm cháu đưa nàng về nhà, gặp lúc bố mẹ cháu sửa soạn mở tiệc đãi ông bác từ Hố Nai lên thăm. Ông bác vui tính bảo tiện bữa ngồi ăn luôn, cháu đang chần chừ thì nàng vén áo hạ ngay cái bàn tọa tròn lẳng xuống ghế, cháu kéo lên không kịp. Cháu thủ thỉ giải thích cho nàng rằng, đi đâu gặp khách Bắc kỳ mời ăn thì chớ có ăn liền, cứ để người ta mời dăm lần bẩy lượt, ăn liền người ta chửi mình...chết đói ! Nam kỳ thì thẳng ruột ngựa, mời là cháp lẹ, không cháp dọn xuống bếp, đói ráng chịu, không mời lần thứ hai, ai biểu mời không ăn ! Bỗng mấy đứa em cháu thay phiên nhau : ”Mời bác xơi cơm, mời bố xơi cơm, mời mẹ xơi cơm, mời anh xơi cơm, mời chị xơi cơm”, mời... mời.. mời tùm lum!. Thằng em út cháu mời dài nhất, mời lâu nhất, mời từ trên xuống dưới , trong nhà chỉ có con Tô Tô đang nằm chực dưới gầm bàn là nó không mời. Nó lại chẳng được ai mời để xơi, út mà ! nhưng rồi vẫn xực ào ào ! Cô bạn Nam kỳ của cháu trố mắt nhìn cháu chẳng hiểu chuyện gì xảy ra. Cháu vội ghé tai thì thầm :
-        Em mời gia đình ăn cơm đi !
-        Ủa ! gia đình anh mời em ”ăng” mà ? Bộ ”ăng” cũng phải mời...mời...xơi ...xơi sao ? Nàng ấp a ấp úng cũng ráng mời :
-        Dạ mời bác, mời bác, dạ mời... à... à... mời anh, mời em...
 
Chợt bố cháu lên tiếng :
-        Thôi đủ rồi, cháu mời người trên thôi, còn mấy em cháu không phải mời...Mà hay thật ! con bé này vui vẻ, ngoan ngoãn lắm ! sao con cứ ăn hiếp nó mãi !
Nghe bố cháu nói mà bụng cháu cứ như mở cờ, ông còn cao hứng bảo khi nào nàng nấu cơm Nam kỳ cho gia đình cùng ăn. Cô nàng hí ha hí hửng nói liền :
-        Dạ ! (lại dạ!), để bữa nào cháu nấu bún(g) mắm dzới thịt heo ba rọi cho bác ăn(g), bún(g) mắm thịt ba rọi Trà Dinh ngoong nhức miền Nam nghe bác !
-        Sao ? cô muốn búng hả ? Lỗ tai tôi đây này, muốn búng bao nhiêu thì cứ búng đi ! Thế là cả nhà cháu được một trận cười nắc nẻ. Nào đã hết đâu, mẹ cháu chợt bảo:
-        Cháu xuống bếp lấy cho bác mấy cái ”cùi dìa” với cái ”muôi” để trong ngăn kéo đấy !
Nàng ngớ ra cứ như được nghe tiếng...Tây, nhìn cháu cầu cứu. Cháu cười hì hì khoái tỉ, ra cái điều thông thái giải thích ngay :
-        Cái ”cùi dìa” Nam kỳ kêu là cái ”muỗng”, tại Bắc kỳ sống lâu với bọn Tây, chúng nó gọi là ”la cuiller” thì Bắc kỳ gọi luôn là cái ”cùi dìa” cho tiện. Còn cái ”muôi” Nam kỳ kêu là cái ”vá”, chữ ”vê” thì đọc là ”dê” cho nên gọi là cái ”dzá”, phải không ? Nàng đỏ mặt, bĩu môi : ”Cái đồ dzô dziêng, tui đi dzìa à nghen !”
 
Sau bữa cơm hôm ấy, hình như bố cháu bắt đầu ”chuyển hệ”, có vẻ gần gũi thân mật với nàng hơn vì thấy nàng thật thà, có sao nói dzậy, không bãi bôi, không vòng vo tam quốc, nhất là...không lười như ông nghĩ. Thừa thắng xông lên, cháu thủ thỉ với mẹ cháu là cháu muốn lấy nàng làm vợ. Mẹ bàn với bố, bố vẫn ngần ngừ. Tại bố cháu không biết đấy chứ, cháu đọc lóm từ một quển sách nào đó người ta viết rằng, trong lịch sử nước ta hầu hết các vua chúa miền Trung đều có nhiều bà vợ bé, mà hầu như bà nào là Chánh Cung Hoàng Hậu cũng đều là Nam kỳ: vua Minh Mạng có rất  nhiều vợ, đa số là các bà Nam kỳ, Chánh Cung là bà Hồ Thị Hoa, người Biên Hòa; Chánh Cung của vua Thiệu Trị là bà Từ Dũ, người Gia Định; Vợ chánh của vua Bảo Đại là bà Nguyễn Hữu Thị Lan (tức Nam Phương Hoàng Hậu), là người Gò Công. Mấy ông vua cũng tinh đời đáo để ! Nhưng cháu ”không phải là vua, nên mộng ước thật bình thường”, chỉ xin ”...quỳ lậy Chúa trên Trời, sao cho lấy được ...con nhỏ Cái Bè con thương !” Thật là oái oăm: cá đã cắn câu mà bố cháu vẫn chưa cho giựt cần! Tuy thế, thỉnh thoảng bố cháu cũng dò hỏi về gia đình nàng. Thì cháu đã nói rồi mà, ”quê Cái Bè, nội Cái Răng, ngoại Cái Dồn”, ruộng đất mênh mông, sông nước dập dình, ăn nói ”ngắn gọn và dễ hiểu” chứ không ”dài dòng nhưng khó hiểu”... kiểu Bắc kỳ ! Chấm hết!
 
Ngày vui nhất đời cháu là ngày bố cháu ra lệnh sửa soạn ”lên đồ dzía” đến thăm gia đình nàng. Sao bố cháu không nói thẳng thừng ra là đi ”hỏi vợ”, đi ”chạm ngõ” cho xong. Nhưng mà cần gì phải ”chạm ngõ” với lại ”chạm cổng” cho rườm rà rắc rối, nhà của nàng cháu biết từng phòng, quen từng góc, rõ từng cột. Mỗi lần cháu từ đơn vị ”dù” về đều có chút quà biếu ba má nàng, cho mấy đứa em nàng và cho cả cô Ba giúp việc trong nhà (học theo sách dụ khị của xếp cháu đấy !). Lần nào gặp ba nàng là lần đó có...nhậu. Đồ nhắm lúc nào cũng có sẵn, lúc củ kiệu tôm khô, khi ra sau hè ngắt mấy trái xoài tượng chấm mắm nêm ngào ớt, kẹt quá cột sợi ny-lông dzô ngón chân cái, đầu kia cặm mấy con trùng liệng xuống sông, cũng câu được mấy con cá lên nướng làm mồi. Nam kỳ trù phú mà ! Ổng không nhậu bia nhậu rượu, mà nhậu đế; không nhậu bằng cốc hay ly mà nhậu bằng tô, tô nào tô nấy bằng cái bát ăn cơm nhà cháu. Thế mà ổng lúc nào gặp cháu thì cứ nói rằng: ”Dô dzới tao dăm ba sợi nghe mày !” Chưa tới nửa sợi cháu đã guắch cần cẩu ! ”Lính tráng như mày chi mà yếu xìu sao oánh giặc nổi ? Dzô cái coi !” Ổng thương, ổng coi như con như cháu, ổng mới kêu cháu bằng ”mày”. Tiếng ”mày” của Nam kỳ biểu lộ cái chân tình, sự gần gũi thân thương, không như Bắc kỳ khi đã xổ ra tiếng ”mày” rồi thì ... ô hô ! ô hô ! thiện tai ! thiện tai ! chạy cho lẹ !
Một hôm đang nướng con mực khô nhậu lai rai với ổng, bỗng có khách gõ cửa bước vào, mặt ổng sáng lên như sao băng, vừa cười vừa nói :
 
-        Chèng đéc ơi anh Sáu Lèo ! hôm qua tui chờ qua qua mút chỉ cà tha, hôm qua qua nói qua qua mà qua hổng qua, hôm nay qua nói qua hổng qua mà qua lại qua, nay qua rồi có thằng rể tương lai tới thăm, nhào dzô chơi vài xị, hôm nay có ớt nè qua !
 
Nói chi mà cứ qua đi qua lại, qua tới qua lui, nói cũng như thơ phú đấy chứ, thế mà mẹ cháu cứ nói tiếng Nam kỳ nghe sao như tiếng...nước ngoài !
 
Bắc kỳ vẫn có câu ”dâu là con, rể là khách”, nhưng Nam kỳ thì ”dâu là con, rể cũng là...con luôn”. Bố dzợ chịu chơi lại gặp thằng rể cũng chịu chơi luôn, dzô ba xị rồi thì coi như...bạn, chơi xả láng sáng dzề sớm, còn má dzợ bỗng nhiên thành... chơi chịu ! Nàng kể cho cháu nghe, nhiều lần ổng đi nhậu quá giờ giới nghiêm chưa chịu về, cả nhà trông đứng trông ngồi. Chợt nghe tiếng xe Vespa quen thuộc chạy ngang nhà, cứ thế nghe cái ”dzù” rồi lại chạy mất tiêu, lại nghe cái ”dzù” rồi đi tuốt luốt ! Sinh nghi, nàng chạy ra cổng đón đường chặn xe : ”Ba ui ! Ba ui ! Tới nhà rồi nè !”. Ổng chợt tỉnh, quẹo dzô thắng cái ”két”, xe đổ cái rầm, ổng té cái đụi, miệng lèng nhèng ” Ủa, nhà mình đây rồi sao? Dzậy mà tao chạy dzòng dzòng kiếm hoài hổng ra !”
 
Ngày cưới, cháu chọn nhà hàng Đại La Thiên của chú Ba tuốt bên Chợ Lớn cho có vẻ trung dung, không Nam cũng không Bắc mà là cơm Tàu. Không xài Karaoke nhưng chơi nhạc sống. Có ông chú dzợ tên là Ba Phoóng làm nhạc trưởng cho mấy bà xồn xồn Nam kỳ lên sân khấu ca cải lương hà rầm. Hình như 7 thứ nghệ thuật của nhân loại đối với Nam kỳ đều tóm gọn trong mấy câu dzọng cổ thiệt mùi. Đám cưới cháu người ta chụp nhiều hình lắm. Ông bố vợ coi hình gục gặc cái đầu : ”Chèng đéch ơi ! thằng rể tao chụp hình coi phông độ dzữ hén ! Ráng nghe mày !” Cháu chẳng hiểu ổng nói cháu phải ráng cái gì ? Nhưng có một cái cháu phải ráng là cái chắc, ai biểu ham dzợ Nam kỳ...mũi cao chân dài ! Còn bố cháu xem ảnh thì lại phán một câu xanh rờn : ”Con dâu bố chụp với bố ảnh này đẹp quá, giá mà đứng cạnh bố con khoanh tay lại thì còn đẹp hơn biết bao !”. Ông xếp cháu, khơi khơi tự nhiên thành ông dượng, sẵn có dăm ba ly nhưng mắt vẫn láo liên ngó bà cô, rồi len lén kể lể làm oai : ”Thấy chưa mày! Hồi đó tao xách máy bay xuống Vĩnh Long rồi lạng qua Cái Bè, mới lạng chơi dzài ba dzòng là dzớt luôn bà cô mày, ngon chưa !” Cám ơn ”ông xếp dượng” đã có công ”nối giáo cho giặc” rồi rước luôn giặc vào nhà. Còn mấy thằng bạn Không Quân quỷ sứ thì xúm nhau ca bản ”Mùa thu chết ”... đã chết rồi, cho mày...chết luôn!
 
Ngày qua ngày, cháu không chết mà vẫn sống nhăn răng với bà vợ ”quý phái bình dân”, bây giờ đã có 4 con với 3 đứa cháu ngoại để nựng Nam kỳ cũng chăm chỉ đấy chứ ! Thế là xong một đời phiêu bạt giang hồ, bay bướm, quậy phá ! Được cái vợ cháu cưng cháu lắm (Nam kỳ mà!), bao nhiêu công việc trong nhà từ lau nhà, rửa chén, hút bụi, trồng cây, giặt đồ...vợ cháu dành làm hết ráo. Bả nói  ”tay chân ông như thằng cùi, làm đâu hư đó, để tui làm luôn cho lẹ !”. Cháu đi làm mang tiền về, bả cũng không thèm động tới, bảo rằng ”tui hỏng cần anh nuôi tui !” Thế nhưng vợ cháu ghen khỏi nói, trong vườn trồng nhiều ớt hơn trồng hoa, ghen có đẳng có cấp, ghen có kế hoạch, có phương án đàng hoàng. Ghen thì ghen, lâu lâu cháu cũng theo bạn bè...nhảy dù vài sô, về nhà im thin thít, thế mà bả cũng ”nghe” được mùi, lườm lườm, nguýt nguýt, rồi cũng huề tiền. Sau này cháu mới khám phá ra vợ cháu rất sòng phẳng, đâu ra đó, nếu ”ăn bánh trả tiền” là...cho qua cầu gió bay, không thèm chấp. Một hôm vô tình đọc báo thấy tin cô Quờn, người Sóc Trăng, ghen chồng lăng nhăng, lẳng lặng lựa lúc chồng đang say túy lúy, xách con dao bếp cắt luôn...của quý của chồng đem quăng sau vườn. Cô Quờn ra tòa ngồi chơi 4 năm tù. Trời đất Thiên địa ơi! Nam kỳ mà ghen kiểu này chắc cháu chết sớm, cháu dấu luôn tờ báo, ai dè vợ cháu chu môi oỏng ẻng : ”Cái đó còn đỡ à nghen ! gặp tui là tui cho luôn dzô cái máy xay thịt rồi quăng cho bầy gà ăn, chớ giờ người ta dzăng minh lắm, khâu nối lại mấy hồi !” Má ơi là má ! Cháu nghe mà ớn lạnh xương sống! Chơi kiểu này thì hơn xa các mợ Bắc kỳ rồi ! Nhưng cháu lại được phép kéo bạn bè về nhậu...xả láng, nhậu ”vô tư”.
Xỉn quá thì : ”Anh mệt rồi nghen, uống ly nước đá chanh nè, rồi dzô đây em cạo gió hết liền !”.
Bạn bè ói mửa tùm lum thì : ”Hổng sao đâu, anh ngồi tiếp mấy ảnh đi, em dọn cho !”
Mấy thằng bạn có vợ Bắc kỳ ngó phát thèm !
 
Chắc khí thiêng sông núi Bắc kỳ linh thiêng hùng vĩ , hay nói theo khoa học hiện đại là cái ”dzen” Bắc kỳ quá mạnh, nên vợ cháu nửa dưới vẫn còn là Nam kỳ, nhưng nửa trên đã hóa thành Bắc kỳ: không nói ”bự bành ky” mà nói ”to vật vã”; không gọi ”trái bom” mà gọi ”quả táo”; thích ăn canh rau muống hơn nấu canh chua; nhưng đặc biệt nhất là ăn nói không còn ”ngắn gọn và dễ hiểu” như xưa, mà bây giờ thì.. ôi thôi ! ”dài dòng, ào ào như thác đổ”, nghe riết muốn khùng ! Bố cháu ăn ”bún(g) mắm thịt ba rọi” của vợ cháu nấu, đến phát nghiền, nghiền luôn cả chén nước mắn pha đường. Nhà cháu có bốn anh em trai thì bố cháu có tới ba ả dâu Nam kỳ, nhưng cả đám hợp lại vẫn thua xa một mợ dâu Bắc kỳ, ăn nói ngọt như đường phèn, dịu dàng khoai thai như thiên nga, thêm cái tài...chửi như hát di truyền. Thế là cái mộng ”dâu rể phải là Bắc kỳ” của bố cháu bị nước sông Cửu Long vùng Nam bộ cuốn trôi tiêu tùng. Bố cháu bây giờ cũng rành ”sáu câu” về Nam kỳ lắm, ông bảo người ta nói rằng:
-        ”Tính tình gái Nam kỳ giống như mưa Sài Gòn: đỏng đảnh nhưng mau quên; tính tình gái Bắc kỳ giống như mưa Hà Nội: âm ỉ và dai dẳng”.
Lợi dụng lúc ông đang vui vẻ, cháu bèn phụ họa :
-        Bố biết không, người ta cũng bảo : ”Ở Sài Gòn nhiều em sinh viên giống như ca ve;
Ở Hà Nội nhiều em ca ve giống như sinh viên”, đúng không bố ?
Bố cháu quắc mắt : ”Sao dám ăn nói lăng nhăng thế hả ?”. Cháu chuồn nhanh kẻo ông nổi giận. Thôi thì đến nước này rồi, cúi xin các cụ cũng rộng lòng bỏ qua cho cháu nếu có gì gọi là thiên vị, bởi vì con gái Nam kỳ bây giờ đã là ”cây nhà lá vườn” của cháu, nên cháu đành phải ”ta về ta tắm ao ta”, ôm lấy cái ao Nam kỳ, ôm cứng cái cây sầu riêng Nam bộ cho phải đạo ”tình Bắc duyên Nam”, nếu không cháu phải ôm thùng mì gói suốt đời. Mong sao các cụ đọc xong rồi bỏ qua, cứ coi như một chuyện tầm phào, bởi vì cháu đã liều mình như mấy mợ Hà Nội làm con chim đa đa, không lấy vợ gần mà lấy vợ xa, xa tuốt luốt tận cái xứ Nam kỳ với giòng sông 9 cửa đầu rồng (Cửu long )
 
Nguyễn Hữu Huấn