TÔI LÀ PHẬT TỬ THEO CÁCH CỦA RIÊNG TÔI
(Dương Thu Hương)
Sau khi trả lời ông Đinh
Ngọc Ninh bỗng nhiên tôi nhận được một loạt thư, hỏi:
- Bà có phải phật tử
không? Chúng tôi thấy nhiều quan điểm trong bài viết của bà rất gần với lý thuyết đạo Phật.
- Nếu điều chúng tôi
nghi ngờ là đúng, tại sao một người đấu tranh cho dân chủ lại có thể là phật tử ?
Câu trả lời của tôi là: Tại sao không?
Đạo Phật không biên giới.
Đó là một tôn giáo thẫm đẫm tính đạo đức và triết lý. Đạo Phật cũng như bất cứ
tôn giáo nào khác đều tồn tại và phát triển thông qua hằng hà sa số các cá
nhân. Bất cứ cá nhân nào cũng có một gốc rễ văn hóa, cũng mang một nhãn hiệu
bản thể gọi là quốc tịch. Do đó khi trong một con người cùng tồn tại song song
hai tình yêu lớn: tôn giáo và tổ quốc, người đó ắt phải tranh đấu cho hai kỳ
vọng, hai niềm tin.
Vì thế, câu trả lời của
tôi là: Tại sao không ?
Tuy nhiên, tôi chỉ là
phật tử theo cách của riêng tôi. Tôi không đi lễ chùa. Chẳng phải là cố tình
tìm một cách tồn tại độc đáo nhưng vì tôi không có khả năng thỏa hiệp, cho dù
đó là một sự thỏa hiệp dễ chịu nhất.
Cách đây chừng mười bảy
mười tám năm một ngày xuân tôi đi viếng cảnh chùa. Ngôi chùa đó nằm gần phủ Tây
Hồ. Trên đường tới phủ rẽ tay phải chừng non trăm mét là tới. Tôi không còn nhớ
rõ tên chùa mặc dù đó là nơi trước khi xảy ra sự việc năm nào tôi cũng tới,
khoảng một hai tháng một lần, siêng năng nhất là mùa xuân và mùa thu. Đó là
ngôi chùa cổ còn may mắn sót lại sau những cơn đốt phá đình chùa đền miếu theo
chủ trương "tiêu diệt tàn dư phong kiến" của bạo quyền cộng sản. Không có gì đặc biệt ở ngôi chùa ấy, ngoài một
mảnh vườn nhỏ vừa trồng đào vừa trồng mai. Có lẽ cảnh tượng thân ái của những cây
đào và cây mai chen vai, thích cánh cuốn hút tôi vào mùa xuân và khi mùa thu đến, đám
cành trần trụi khẳng khiu vươn lên trong lặng lẽ cũng mang lại một vẻ đẹp u sầu
và nghiêm cẩn, vẻ đẹp ta thường gặp ở mọi ngôi chùa cổ xứ Bắc.
Trưa hôm đó, tôi qua
cổng chùa đi vào ngôi nhà ngang. Vừa đặt chân lên bậc tam cấp tôi chứng kiến
một cảnh tượng không tương hợp chút nào với chốn từ bi: Trên tấm phản gỗ mốc,
sư cụ bà ốm nằm còng queo, bát cháo ăn dở ở một góc phản khô đét lại. Nhà
"sư nữ" ngoại tam tuần mắt long sòng sọc, tay nắm cổ người bệnh lắc,
miệng rít lên:
- Mày chết đi, mày
chết ngay đi cho người ta nhờ ! ..
Sư cụ đã quá yếu không
động cựa nổi, cái đầu lắc lư ngật ngưỡng như quả bưởi trong tay người đàn bà
trẻ hung hãn:
- Mày chết đi ..
Tôi định lui ra nhưng cô
ta đã nhìn thấy tôi. Quá muộn cho cả đôi bên. Hẳn cô ta không ngờ có kẻ đột
nhập vào "ngang hông" bởi thông thường khách thập phương phải qua
sân đi vào chùa chính. Cô ta không biết rằng tôi quen mọi ngõ ngách và thường
đi tắt qua nhà ngang vào chùa sau để hầu chuyện sư cụ. Không thể mở miệng
"mô phật" như lần trước cô ta ném cho tôi một cái nhìn giận dữ và
thách thức rồi ngoay ngoảy quay đi. Tôi ngồi xuống phản với sư cụ. Cụ không mở
mắt nổi và giọng nói đã đứt quãng nhưng hoàn toàn minh mẫn. Đó là người đã
xuống tóc từ thời chính quyền 1945 chưa thiết lập, đã duy trì và tu tạo ngôi
chùa này qua mọi thăng trầm của thời gian. Nhưng cụ không có mảy may quyền hành
để lưu giữ các chân tu ở lại, thay cụ chủ trì. "Nhân sự" do "bên
trên" đưa xuống.
Vậy cái gì là "bên
trên"?
Quyền lực nào áp chế
những người tu hành và thả lũ lợn bẩn thỉu vào khắp chùa chiền xứ sở ? Chẳng có
gì bí mật cả, "bên trên" là A 25 Cục bảo vệ văn hóa thuộc Tổng cục
1 Bộ Nội vụ. A 25 có nhiệm vụ đào tạo sư sãi để "yểm" Hội Phật giáo
Việt Nam, để trấn giữ hệ thống chùa toàn quốc. Không ai quên rằng chính nhà
nước cộng sản đã dấy lên cơn bão kinh hoàng nhằm tàn phá đình chùa, đền miếu
thậm chí đào mồ hốt mả chúng sinh, tiêu diệt tất cả những gì mà họ cho là
"tàn tích của chế độ phong kiến". Trong một thời gian dài, những
người cộng sản muốn xóa sạch tất cả các tôn giáo, bắt chúng sinh thờ vị thần
duy nhất mắt xanh mũi lõ tên là Karl Marx và đám tông đồ của ông ta. Nhưng để
xóa đi một đức tin và thay thế vào một đức tin khác không dễ dàng như họ tưởng.
Và không phải bất cứ lúc nào họng súng cũng đem lại những kết quả mong muốn.
Thời gian không ủng hộ họ. Bức tường Berlin sụp đổ và Lénine vĩ đại của họ sụp
đổ theo. Dân Nga xích cổ tượng ông ta kéo lê trên bùn. Đám tín đồ phương Đông
đứng chơ vơ không biết từ nay "người cầm lái vĩ đại" của họ sẽ là ai
? .. Trong lúc đó dân chúng ào ào dựng đình, cất chùa. Khắp nơi miếu mạo, đền
chùa, lăng tẩm dựng lên theo trí nhớ. Chính quyền cộng sản có thể truy bức tàn
sát chúng sinh, cướp bóc phá hủy tài sản của họ, nhưng trí nhớ và niềm tin là những thứ không thể bắn
thủng bằng các loại đạn. Và
như thế, giờ đây dân chúng đã xây lại tất cả những gì đã từng bị họ tàn phá,
nếu không nói là còn nhiều hơn. Nhu cầu tâm linh hóa ra cũng là một nhu cầu
sinh tử của kiếp người. Trước tình hình này A 25 trở nên quan trọng hơn trong
vai trò "bảo vệ nền chuyên chính". Nhiệm vụ của họ là "khống chế
hội phật giáo" biến chùa chiền toàn quốc thành hệ thống pháo đài của quyền
lực, rình mò theo dõi tư tưởng dân chúng và ... điều này nữa, các tín đồ
của Marx không quên: tận thu nguồn lợi béo bở từ đám chúng sinh "mê
tín" kia. Vậy là đội quân "sư nhà nước" được hình thành. Nguồn đào tạo chính là C500 (đại học ngành an
ninh). Thêm nữa, sinh viên tuyển lựa từ các đại học khác như Tổng hợp, Sư phạm,
Ngoại ngữ... có thành phần cơ bản (lý lịch đáng tin cậy) được vũ trang bằng lý
thuyết giai cấp của Marx-Lénine và một thứ chủ nghĩa duy vật hạ đẳng. Sau đó,
lớp người này được "tráng men" bằng lý thuyết đạo Phật và
trước hết các phương pháp niệm kinh, hành lễ để "vào nghề".
Như thế nhà nước cộng
sản đã tạo nên một đội ngũ "tôi
tớ trung thành" được quyền thỏa mãn mọi
nhu cầu vật chất và nhục thể dựa trên sự đầu cơ trục lợi "những khát vọng
tâm linh" của dân chúng. Các ông sư bà sư áo quần phấp phới cưỡi xe vù vù
đi "họp kín". Họp kín ở đây tức là họp "giao ban" ngành dọc
A25. Họ báo cáo rành mạch mọi thành tích. Riêng những cọc tiền thu được từ các
hòm công đức là "không thể rành mạch" vì các sư còn phải mang về quê
xây nhà tầng và lo cho các con học đại học trong nước và ngoài nước. Sư hành
nghề ở Thái Nguyên, Hà Bắc thường có quê quán gia thất tại Thanh Hóa, Nam Định
và ngược lại .. So với các nghề khác trong Bộ Nội vụ, "nghề làm sư" là béo bở, chỉ thua
kém "Cục buôn lậu ma túy" thôi.
Cả một bộ máy lừa bịp
vận hành nghiễm nhiên và ngang nhiên dưới ánh mặt trời, trước mắt dân chúng.
Dân chúng, tuy thường
xuyên phải cúi mặt nhẫn nhục cam chịu, đôi khi cũng vùng lên tranh đấu, đòi
đuổi sư nhà nước, giành chùa cho chân tu. Vụ biểu tình của các tín đồ chùa Láng
Hà Nội cách đây ba năm là một ví dụ. Trong tối hôm đó, công an đã bắt giam trên
một trăm tín đồ.
Vậy tôi xin trở lại lý
do khiến tôi không đi lên chùa từ gần hai thập kỷ nay, sau kỷ niệm đau buồn với
sư cụ tôi không còn muốn nhìn thấy một lần nữa bọn "thầy chùa đểu".
Nhưng chưa hết.
Tôi không đi lễ chùa cũng
còn vì chùa chiền giờ đây đầy rẫy bọn "đao phủ" đi "đánh
quả" thần, phật. Gọi là "đao phủ" vì chính lũ người đó trước đây
đã ra lệnh phá đình chùa, đuổi sư sãi, vặt cổ vặt tay tượng phật làm củi... giờ
đây chúng lại xì xụp hương khói hơn tất thẩy mọi người.
Vì sao có sự đổi hướng
quay chiều?
Tôi sẽ trả lời tường tận
nhưng trước hết, để tránh rơi vào lối ám chỉ chung chung tôi xin nêu dẫn chứng:
- Một là, những người
dân Huế cỡ trung niên hẳn chưa quên câu ca này:
Bùi San cùng với Trần Hoà
Hai
thằng ngu ấy phá đàn Nam Giao
Bùi San: bí thư tỉnh ủy. Trần Hoàn: trưởng ty văn hóa. Công trình chung của họ là
hủy diệt một di tích lịch sử nơi xưa kia các vua Nguyễn tế Trời Đất và tiên
vương. Sau này, ông Trần Hoàn ra làm bộ trưởng Bộ Văn hóa, vợ con ông ta xem
bói từ Nam ra Bắc, khấn lễ mọi nơi, đặc biệt lễ hậu là Bia Bà để cầu cho ông
được "vững vàng". Riêng tôi, tôi nhìn thấy ông nhiều lần cắp cặp đứng
trước cổng nhà các vị "Bộ Chính trị". Quả là một cuộc hiệp đồng tác
chiến; vợ con ông đi đút lót "thần, phật" còn ông đi hầu hạ các
"thánh sống" để ông được duy trì thêm 4 năm trên ghế bộ trưởng vì ông
đã già lại quá nhiều khiếu kiện, cấp trên của ông đã chấm ông "vào sổ
hưu".
- Hai là, thời kỳ Lê Khả
Phiêu làm tổng bí thư Đảng, ngoài chiến dịch "Thanh Hóa hóa bộ máy cầm
quyền" ông ta đã tranh thủ đào bới ngân khố quốc gia để xây dựng lại, mở
mang hoành tráng đền thờ Lê Lai, tin tưởng đó là tổ tiên trực tiếp, là thần hộ
mạng cho mình.
- Ba là, vài năm gần đây
nhiều người họ Trần vênh vang tuyên bố rằng họ Trần sắp sửa bước vào thời kỳ
"đại phát" vì Trần Đức Lương vừa cho xây khu mộ cổ họ Trần tại Thái
Bình. Khu mộ này sẽ được xây theo thế "rồng phục" sao cho ít nhất,
chín đời họ Trần sẽ liên tục "làm vua" v v... và v v...
Theo logic, ngày nào chế
độ độc tài này còn tồn tại thì tất thảy bọn cầm quyền họ Miêu họ Thử họ Ngưu họ
Mã... sẽ lần lượt vét ngân khố quốc gia để xây dựng mồ mả đền miếu cho riêng
dòng tộc của chúng với một chủ đích hoặc ngụy trang hoặc lộ liễu: Duy trì quyền
lực.
Quyền lợi, đó là căn nguyên
sự quay chiều đổi hướng của kẻ cầm quyền. Marx và Lénine hết xài được thì quay
sang "đầu tư, đánh quả" thần, phật. Hạng người ti tiện, lòng tham
ngùn ngụt như vậy làm gì có "tâm hồn tôn giáo"?.., nhất là một tôn
giáo có quá nhiều yêu cầu đạo đức, cấu trúc trên tinh thần khắc kỷ như đạo
Phật? Không phải vô cớ mà so với đạo Hồi và Thiên Chúa giáo, đạo Phật có ít tín
đồ hơn. Con đường dốc khó trèo. Con đường dốc ấy làm sao tương hợp được với bọn
cởi áo đao phủ khoác áo cà sa điềm nhiên như diễn viên thay trang phục sân khấu, không một chút ngượng ngùng, không mảy may hối
tâm, không một lần thành khẩn trước tha nhân? ...
Lẽ ra, chính quyền Việt
Nam phải xin lỗi dân chúng một cách công khai, một cách thanh thật, một cách
nghiêm khắc vì tội ác phá đền chùa lăng miếu, đào bới san ủi mồ mả tiền nhân
của chúng sinh. Nếu họ cải tâm họ đã phải làm điều đó trước khi đặt chân lên
thềm những đền chùa mà dân chúng gom góp xây dựng lại.
Nhưng cái ngã mạn của kẻ
cầm quyền khiến lương tâm họ mù tối. Họ không cần xin lỗi ai bởi vì họ tự nhận
là "Đảng thần thánh và vĩ đại". Và vì "thần thánh và vĩ
đại" họ đã thản nhiên làm cái việc mà cổ nhân từng cảnh báo:
"Thế gian có mặt mũi nào
Đã nhổ lại liếm làm sao cho đành."
Tôi chuyển sang mục thứ
hai: Tôi là phật tử theo kiểu của riêng tôi. Không đi lễ chùa đã đành, tôi cũng
không tin tuyệt đối vào lòng từ bi. Đối với tôi, lòng từ bi không thể độc hành. Lòng từ bi phải bước
song song với một trí tuệ sáng suốt và khả năng chiến đấu chống lại điều ác.
Khi lòng từ bi không
được rọi chiếu dưới ánh sáng trí tuệ, nó dễ dàng đưa ta đến tai họa. Chỉ cần
nhớ lại tích "Đường Tam Tạng đi lấy kinh" là đủ. Đã bao nhiêu lần vị
sư phụ này mắc lừa bọn yêu quái, niệm chú để xiết chặt vòng kim cô làm Tôn Ngộ
Không đau đớn vật vã điên cuồng. Và cũng chớ nên quên rằng bao nhiêu lần ông ta
mắc lừa, bấy nhiêu lần Tôn Hành Giả đi giải cứu.
Khi thiếu khả năng chiến
đấu chống lại cái ác, lòng từ bi của chúng ta biến thành chất dầu
nhờn, bôi trơn cỗ máy nghiền của loài ngạ quỷ và chính cỗ máy này sẽ nghiền nát
chúng sinh. Một dân tộc hiền hòa như dân tộc Tây Tạng đã mất nước vì thiếu khả
năng chiến đấu. Quân lính Trung Cộng không chỉ xâm chiếm,
tàn phá đất nước Tây Tạng mà còn đổ than hồng vào đầu vào họng các nhà sư
và tra tấn họ bằng tất cả những hình thức tra tấn thời Trung cổ.
Thêm một ví dụ nữa:
Ai cũng biết ở Khơ-me
đạo Phật là quốc giáo. Vậy mà chính tại xứ sở này nạn diệt chủng đã xảy ra. Hơn
hai triệu người bị giết dưới chính quyền Khơ-me đỏ. Thê thảm thay, rất nhiều
cuộc tàn sát man rợ lại xảy ra chính tại các chùa. Nơi thờ cúng linh thiêng
biến thành địa ngục và giờ đây, thành một thứ bảo tàng lưu giữ đầu lâu của các
nạn nhân.
Với nghiệm sinh, tôi xin góp một dẫn dụ nhỏ. Năm 1991, trong gần tám tháng tù, tôi
nhớ nhất câu này:
- Chị sẽ được ra tương ớt! Chị sẽ được nghiền ra
tương ớt!
Không phải vì câu nói được lặp đi lặp lại mà vì
thái độ của những người nói. Họ có một vẻ hài lòng đáng sợ, một sự điềm nhiên
đáng sợ. Tôi không thù ghét họ: một đại tá, một đại úy, một trung úy. Có lẽ về
bản chất họ không phải người ác người xấu. Nhưng họ đã được đào tạo để làm
cái việc "nghiền người khác ra tương ớt". Vì thế, đối với họ,
việc nghiền ai đó ra tương ớt là phận sự, là phương tiện sinh tồn, giống như
người thợ phay bào một con ốc thép hoặc người đầu bếp xào món rau.
- Chị sẽ được nghiền ra
tương ớt !
Mỗi lần nghe câu nói đó,
tôi đọc thấy trên gương mặt họ niềm hạnh phúc thanh thản của "Gã nông phu
vừa cày xong thửa ruộng, Ngả mình trên nếp cỏ ngủ ngon lành".
Đương nhiên, họ chuẩn bị
mọi sự để cho tôi ra "tương ớt". Nhưng không may cho họ, một tuần sau
cuộc đảo chính ở Nga thất bại, thành trì của chủ nghĩa xã hội sụp đổ tan tành,
cả ê-kíp ba người hỏi cung tôi tái xanh tái xám, mặt họ hiện lên nỗi hoang mang
thê thảm, không còn chút tự tin.
Họ phải dừng tay, không
dám cho tôi ra "tương ớt" ... Và rồi, với 95 triệu franc viện trợ
không hoàn lại của chính phủ đảng Xã hội Pháp, nhà nước cộng sản đã thả tôi ra.
..
Hơn một thập kỷ trôi
qua, tôi vẫn không quên hình ảnh "tương ớt". Vì cỗ máy nghiền con
người ra tương ớt vẫn tồn tại. Và nó tiếp tục nghiền những người khác. Cả một đội ngũ "thợ nghiền" tiếp tục nuôi sống bản thân cũng như vợ con họ
bằng nghề nghiệp này. Liệu các vị có thể dùng lòng từ bi hỉ xả như vũ khí tối
hậu và duy nhất để làm thay đổi cỗ máy nghiền này chăng ? .. ? ..? ..
Tôi không tin.
Vì thời gian hữu hạn,
khả năng con người cũng hữu hạn.
Vì sự tập nhiễm là bản
năng thứ hai có sức mạnh ghê gớm mà chỉ riêng lòng tốt không đủ để đổi thay.
Vì lẽ đó, cuộc đấu tranh
của phật tử cũng như của giáo dân không thể chỉ tựa trên sức mạnh của lòng từ
ái. Cuộc đấu tranh nào cũng phải có chiến lược và chiến thuật, tùy cơ ứng biến.
Và dù đứng dưới bóng Phật hay bóng Chúa, con người cũng cần có một bộ óc phán
đoán phân tích sắc bén cộng với một khả năng đủ cho việc chống lại cái ác, bên
cạnh lòng hỉ xả từ bi.
Tôi là phật tử theo kiểu
của riêng tôi vì tôi không bao giờ chủ trương đạo Phật trở thành "quốc
giáo", tôi đấu tranh cho một nền dân chủ đích thực mà nền dân chủ đích
thực chỉ cho phép tồn tại một nhà nước thế tục trong đó tất thảy các tôn giáo đều được bảo vệ một cách
bình đẳng nhưng trước hết mọi tín đồ đều có nghĩa vụ làm
công dân xứng đáng.
Với tôi, chỉ có một nền
dân chủ đích thực cho phép thay đổi thường xuyên các chính phủ thối nát, lạm
nhũng mới cho phép các tôn giáo tồn tại đúng với tư cách tôn giáo, đền chùa và
nhà thờ mới tồn tại như những chốn thiêng liêng nhằm thỏa mãn nhu cầu tâm linh
của cõi người mà không bị biến thành đồn bốt bảo vệ cho quyền lực nơi đám cường
hào trá hình ức hiếp người tu hành và bóc lột chúng sinh.
Bây giờ, là một câu hỏi
có tính riêng tư:
- Cơ duyên nào đưa bà
đến cửa thiền ?
Tôi xin trả lời:
- Sự đưa dẫn của số
phận.
Đúng như vậy. Tất cả
những ngả rẽ lớn trên đường đời, tôi không trù tính. Tất
cả, đều xảy ra như những ngẫu nhiên. Nói một cách bóng bẩy hơn suốt phần đời
tôi đã trải qua là tạo phẩm dưới bàn tay vô hình của số phận. Tuổi thơ,
tôi không mơ ước làm nghề viết văn. Trưởng thành tôi cũng không hình dung được
có ngày tôi trở thành kẻ thù số 1 của chế độ này. Tương tự như thế, chưa bao
giờ tôi cố ý đi tìm đọc giáo lý nhà Phật.
Sau cái chết của cha tôi
1992 trong tôi bỗng nảy sinh nhu cầu siêu hình. Vì sao, chính tôi cũng không
rõ. Có điều, tôi biết chắc chắn rằng đời người thường chưa chất những ngộ nhận,
những nhầm tưởng, những bí ẩn, những che giấu... tất cả những gì mà ta thường
gọi là "bờ lú bến mê". Trong quan hệ giữa con người với con người,
những mê lú thường đem lại khổ đau, hờn oán. Thâm tình càng sâu, khổ đau càng
lớn. Bởi vì, chỉ những người ta yêu thương mới có khả năng làm cho ta đau đớn.
Phật tổ Như Lai dạy: "Con cái là những sợi xích bằng vàng". Với tôi,
sự thật dạy thêm vế đối: "Cha mẹ là những chiếc cùm bằng ngọc". Trong
gia đình tôi, tồn tại một nguyên tắc "Gia pháp cao hơn quốc pháp". Vì lẽ đó, trong hơn một thập kỷ cha tôi đã áp
dụng với tôi mọi hình thức kỷ luật quân đội để ép tôi sống với người chồng cũ,
vì "bỏ chồng là điếm nhục gia phong"... Có lẽ vì những ẩn ức đó tôi
bỗng có nhu cầu siêu hình sau cái chết của ông, dù người âm kẻ dương chúng tôi
vẫn là cha con và vẫn có nhu cầu trò chuyện. Cũng chính vì những ẩn ức đó cuộc
gặp gỡ và thờ phụng Phật bà Quan Âm đối với tôi là một hạnh duyên, một may mắn
vĩ đại và thần bí.
Là người viết văn tôi
biết rằng với thời gian và qua thời gian tất thảy các nhân vật lớn thuộc mọi
tôn giáo đều được thần thoại hóa. Nhưng cho dù tước bỏ mọi chi tiết huyền hoặc,
mọi sợi chỉ óng ánh thêu dệt chân dung, tôi vẫn thấy Phật Bà là một nhân cách
vĩ đại tỏa sáng. Bị chinh phục hoàn toàn vì nàng công chúa từ bỏ cuộc đời xa
hoa của hoàng cung, chạy trốn sự truy đuổi của quân lính triều đình, cưỡi hổ về
phương Nam tu hành, tôi đi tìm đọc giáo lý nhà Phật.
Vậy là con đường tôi đi ngược chiều với nhiều người khác. Tuy nhiên phương Tây có câu: "Mọi
con đường đều dẫn đến Roma".
Tôi tin rằng có nhiều
con đường khác nhau dẫn đến tôn giáo nói chung cũng như cửa Phật nói riêng. Tùy
theo duyên phận từng người, họ có thể dấn thân vào hành trình đó sớm hay muộn,
lâu dài hay ngắn ngủi, sâu hay nông, thành thực hay chiếu lệ...v...v...
Đối với tôi, đạo Phật
đem lại nhiều chân lý vĩnh hằng: Tính vô thường của Tồn
Sinh, luật ly hợp của con người, vòng quay Sinh Diệt...v...v... Nhưng trước tất thảy
mọi triết thuyết, đạo Phật dạy ta xử lý ra sao trong các mối mâu thuẫn nan giải
của đời người. Lịch sử cá nhân của Quán Âm Bồ Tát đem cho tôi một sức mạnh mới
mẻ và sự thanh thản triệt để trong tâm hồn. Tôi hiểu là từ ngàn xưa những con
người vĩ đại đã giải quyết ra sao mối mâu thuẫn giữa các thế hệ đặt trong bối
cảnh tình huyết nhục.
Tôi hiểu rằng ngoại trừ
ngày cha mẹ đặt ta vào cõi đời, con người phải tự mình sinh đẻ ra mình,
và lần sinh trưởng thứ hai này mới thực sự quyết định cho nhân cách cũng như sự
nghiệp.
Tôi hiểu rằng không phải
vinh quang cũng không phải chiến thắng mà chính là Tình Yêu và sự Hy Sinh
nâng con người lên cao.
Và tất thảy những ý
tưởng ấy được chắt lọc ra khi tôi đọc "Chuyện Quan Âm". Cho nên tôi
như được hồi sinh khi tẩy xóa mọi ẩn ức, thanh lọc tâm hồn. Tôi cúi đầu trước
vong linh cha tôi vì hiểu rằng chính ông và chỉ ông mới tạo ra tôi nhưng tôi
vẫn đi đúng con đường tôi đã chọn, không mảy may nao núng. Tôi cũng không bao
giờ ép duyên hay can thiệp vào đời tư của các con tôi. Và bài học lớn lao ấy
tôi học được từ Phật bà Quan Âm. Ngài chính là cơ duyên đưa tôi đến cửa Thiền.
Cuối cùng, để cảm ơn tất
cả những ai đã quan tâm hỏi tôi, nhất là các Phật tử tôi xin phép nói rằng:
Tôi vẫn mơ ước có một ngày, khi lũ lợn bẩn thỉu bị đuổi khỏi đền
chùa, mọi nơi thờ cúng linh thiêng được trả lại cho các chân tu những người mà
mệnh và nghiệp gắn kết họ với tôn giáo... Ngày ấy, nếu Trời còn cho sống tôi sẽ
lại "vãn cảnh chùa", để thưởng thức mùi hương thuần khiết, thanh cao
của hoa mộc, hoa sói, hoa lan... những loài hoa chỉ được phép trồng nơi thiêng
liêng hương khói.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét