Bạch Đằng hải khẩu 白藤海口 • Cửa biển Bạch Đằng
Thơ » Việt Nam » Hậu Lê, Mạc, Trịnh-Nguyễn » Nguyễn Trãi » Ức Trai thi tập » Thơ làm sau khi thành công và làm quan ở triều
Bạch Đằng hải khẩu 白藤海口 • Cửa biển Bạch Đằng
白藤海口
朔風吹海氣凌凌,
輕起吟帆過白藤。
鱷斷鯨刳山曲曲,
戈沉戟折岸層層。
關河百二由天設,
豪傑功名此地曾。
往事回頭嗟已矣,
臨流撫影意難勝。
Bạch Đằng hải khẩu
Sóc phong xung hải khí lăng lăng,
Khinh khởi ngâm phàm quá Bạch Đằng.
Ngạc đoạn kình khoa sơn khúc khúc,
Qua trầm kích chiết ngạn tằng tằng.
Quan hà bách nhị do thiên thiết,
Hào kiệt công danh thử địa tằng.
Vãng sự hồi đầu ta dĩ hĩ,
Lâm lưu phủ ảnh ý nan thăng.
Dịch nghĩa
Cửa biển lồng lộng, gió bấc thổi băng băng;
Buồm thơ nhẹ lướt qua sông Bạch Đằng.
Nhìn núi từng khúc, như cá mập, cá sấu bị chặt từng đoạn,
Nhìn bờ từng lốp, như giáo kích gươm đao bị gãy chìm.
Cảnh núi sông hiểm yếu, tạo ra cái thế “lấy ít địch nhiều”,
Ðây là nơi hào kiệt từng lập nên công danh oanh liệt.
Việc xưa nghĩ lại, ôi tất cả đã qua rồi!
Tới đây viếng cảnh, nỗi lòng sao biết nên chăng?
Bạch Đằng là con sông lịch sử của Việt Nam thuộc tỉnh Quảng Yên (Bắc Việt), bắt nguồn từ Phát Lại, chảy ra biển. Cửa Bạch Đằng xưa kia, vốn nay đã chuyển hướng, hiện thuộc Hải Phòng. Ðây là nơi mà Trần Hưng Ðạo đã đánh tan giặc Nguyên Mông. Cửa khẩu Bạch Đằng là một danh lam thắng cảnh, nơi đã từng hai lần quân Việt Nam đánh bại quân Trung Quốc xâm lược, Ngô Quyền (thế kỷ 10) phá quân Nam Hán, bắt sống thái tử Hoằng Thao, Trần Hưng Đạo (thế kỷ 13) đại thắng quân Nguyên, bắt được các tướng Ô Mã Nhi, Phan Tiệp, Tích Lệ...
Bản dịch của Nguyễn Đình Hồ
Biển rung, gió bấc thổi băng băng,
Nhẹ cất buồm thơ lướt Bạch Ðằng.
Kình ngạc băm vằm non mấy khúc,
Giáo gươm chìm gãy bãi bao tầng.
Quan hà hiểm yếu trời kia đặt,
Hào kiệt công danh đất ấy từng.
Việc cũ quay đầu, ôi đã vắng,
Tới dòng ngắm cảnh dạ bâng khuâng.
Bản dịch của Lê Cao Phan
Gió biển bắc phương về giá buốt
Buồm reo vượt cửa khẩu sông Đằng
Núi như kình ngạc phân đòi đoạn
Đất tựa kích đao rải ngổn ngang
Hai chống hàng trăm, trời yểm trợ
Nhiều nên hào kiệt, đất tiềm tàng
Ôi, quay đầu lại ôn muôn sự
Ánh nước nhìn ra, ý nặng vương.
Bản dịch của nhóm Đào Duy Anh
Khi biển hơi may thổi lạnh rùng,
Bạch Đằng qua cửa nhẹ buồm dong.
Chòm chòm núi đá kình rời đoạn,
Lớp lớp bờ lau kiếm nát chồng.
Quan ải trăm, hai, trời đặt hiểm,
Anh hùng sự nghiệp đất nên công.
Việc xưa ngoái lại ôi rồi hết,
Ngao ngán mò xem bóng giữa dòng.
Bản dịch của Cao Nguyên
Biển khơi gió bấc lạnh hơi băng
Dong cánh buồm qua cửa Bạch Đằng
Núi uốn khúc chia kình đoạn ngạc
Đao chìm kích gãy bãi dăng dăng
Địch đông ta ít do trời giúp
Hào kiệt nên công nghiệp rỡ ràng
Nhớ lại chuyện xưa ôi cảm khái
Qua nhìn bóng nước khó nói năng
Bản dịch của Voduonghonglam
Đằng Giang gió bấc thổi băng sông
Nhẹ bước thơ ngâm- một cánh bưồm.
Kình đoạn ngạc phơi non lúc khúc
Giáo chìm gươm gãy sóng chênh chông.
Biển sâu núi hiểm trời xây dựng
Nhân kiệt hùng anh đất cấy trồng
Nhớ lậi chuyện xưa ôn lịch sử
Xuôi dòng nước chảy ý mênh mông...