Viêm Đế Thần Nông Thị tam thế tôn Đế Minh sinh Đế Nghi, ký nhi Nam tuần chí Ngũ Lĩnh, tiếp đắc Vụ Tiên chi nữ duyệt chi, nạp nhi quy, sinh Lộc Tục, dung mạo đoan chính, thông mẫn túc thành Đế Minh kỳ chi, sử tự đế vị, Lộc Tục cố nhượng kỳ huynh Đế Nghi, bất cảm phụng mệnh. Ư thị Đế Minh lập Đế Nghi vị tự dĩ trị Bắc địa, phong Lộc Tục vi Kinh Dương Vương dĩ trị Nam phương, hiệu kỳ quốc vi Xích Quỷ quốc. Kinh Dương Vương năng nhập Thủy Phủ, thú Động Đình quân nữ viết Long Nữ, sinh Sùng Lãm, thị vi Lạc Long Quân, đại phụ dĩ trị kỳ quốc, Kinh Dương Vương bất tri sở chi.
Lạc Long Quân giáo dân canh giá y thực, thủy hữu quân thần tôn ti chi tự, phụ tử phu phụ chi luân hoặc thời quy Thủy Phủ nhi bách tính yến nhiên. Dân hoặc hữu sự, tắc hô Lạc Long Quân viết: "Bô hồ bất lai dĩ cứu ngã bối" (Việt nhân hô phụ viết "cha", viết "bố", hô quân viết "vua" thị dã). Long Quân tức lai, kỳ uy linh cảm ứng, nhân mạc năng trắc.
Đế Nghi truyền tử Đế Lai, dĩ Bắc phương vô sự nhân tư cập tổ Đế Minh nam tuần tiếp đắc tiên nữ chi sự, nãi mệnh thân thần Xuy Vưu đại thủ kỳ quốc nhi nam tuần Xích Quỷ quốc, kiến Lạc Long Quân dĩ quy Thủy Phủ, quốc nội vô chủ, nãi lưu ái nữ Âu Cơ dữ bộ chúng thị tỳ cư vu hành tại nhi chu lưu thiên hạ, biến quan hình thắng, kiến kỳ kỳ hoa quái thảo, trân cầm dị thú, tê tượng đại mạo, kim ngân châu ngọc, tiêu quế nhũ hương, trầm đàn đẳng vị, sơn hào hải thố vô vật bất hữu. Hựu tứ thời khí hậu bất hàn bất nhiệt, Đế Lai tâm ái mộ chi nhi vong phản. Nam quốc nhân dân khổ ư phiền nhiễu, bất đắc an thiếp như sơ, nhật dạ vọng Long Quân chi quy, nãi tương suất dương thanh hô viết: "Bô tại hà phương, đương tốc lai cứu". Long Quân thúc nhiên nhi quy, kiến Âu Cơ độc cư, dung mạo tuyệt mỹ. Long Quân duyệt chi nãi hóa tác nhất hảo nhi lang phong tư tú lệ, tả hữu tiền hậu thị tòng chúng đa, ca xúy chi thanh đạt vu hành tại. Âu Cơ kiến chi, tâm diệc duyệt tòng. Long Quân nghênh quy vu Long Trang nham. Cập Đế Lai hoàn, bất kiến Âu Cơ, mệnh quân thần biến tầm thiên hạ. Long Quân hữu thần thuật, biến hiện bách đoan, yêu tinh quỷ mỵ, long xà hổ tượng, tầm giả úy cụ bất cảm sưu sách, Đế Lai nãi Bắc hoàn. Tái truyền chí Đế Du Võng, dữ Hoàng Đế chiến vu Bản Tuyền, bất khắc nhi tử, Thần Nông Thị toại vong.
Long Quân dữ Âu Cơ tương xử cơ niên nhi sinh đắc nhất bào, dĩ vi bất tường, khí chư nguyên dã. Quá thất nhật, bào trung khai xuất bách noãn, nhất noãn nhất nam. Long Quân toại nghênh quy nhi dưỡng chi, bất lao nhũ bộ, các tự trưởng đại, trí dũng câu toàn, nhân giai úy phục, vị vi phi thường chi huynh đệ.Long Quân cửu cư Thủy Phủ. Mẫu tử độc cư, tư quy Bắc quốc. Hành chi cảnh thượng, Hoàng Đế văn chi cụ, phân binh ngự tái ngoại. Mẫu tử bất đắc Bắc quy, nhật dạ hô Long Quân viết: "Bô tại hà xứ, sử ngô mẫu tử bi thương!". Long Quân hốt nhiên nhi lai, ngộ ư Tương Dã, Âu Cơ kháp viết: "Thiếp bản Bắc địa chi nhân, dữ quân tương xử, sinh đắc bách nam, vô do cúc dưỡng, thỉnh dữ quân tòng, vật tương hà khí, sử vi vô phu vô phụ chi nhân, đồ tự thương nhĩ!". Long Quân viết: "Ngã thị Long chủng, thủy tộc chi trưởng; nhĩ thị Tiên chủng, địa thượng chi nhân, bản chất tương thuộc, tuy âm dương chi khí, hợp nhi sinh tử, nhiên phương loại, thủy hỏa tương khắc nan dĩ cửu cư, Kim vi phân biệt, ngô tương ngũ thập nam quy Thủy Phủ, phân trị các xứ, ngũ thập nam tòng nhữ cư địa thượng, phân quốc nhi trị, đăng sơn nhập thủy, hữu sự tương quan, vô đắc tương phế". Bách nam cáo tự thính thụ, nhiên hậu từ khứ.
Âu Cơ dữ ngũ thập nam cư vu Phong Châu (kim Bạch Hạc huyện thị dã), tự suy tôn kỳ hùng trưởng giả vi Chúa, hiệu viết Hùng Vương, quốc hiệu Văn Lang quốc. Kỳ quốc đông giáp Nam Hải, tây để Ba Thục, bắc chí Động Đình, nam chí Hồ Tôn quốc (kim Chiêm Thành quốc thị dã). Phân quốc trung vi thập ngũ bộ, viết Giao Chỉ, viết Chu Diên, viết Ninh Sơn, viết Phú Lộc, viết Việt Thường, viết Ninh Hải (kim Nam Ninh thị dã), viết Dương Tuyền, viết Quế Dương, viết Vũ Ninh, viết Y Hoan, viết Cửu Chân, viết Nhật Nam, viết Chân Định, viết Quế Lâm, viết Tượng Quận đẳng bộ, mệnh kỳ quần đệ phân trị chi. Trí kỳ thứ vi tướng tướng. Tướng viết Lạc hầu, tướng viết Lạc tướng, Vương tử viết Quan lang, nữ viết Mỵ nương. Tư mã viết bồ chính. Nô bộc viết Trâu, tỳ lệ viết Tinh, tướng quan viết Khối. Thế thế dĩ phụ truyền tử viết Phụ đạo, thế chúa tương truyền giai hiệu Hùng Vương nhi bất dịch. Thời sơn lộc chi dân ngư vu thủy vãng vãng vị giao xà sở thương, bạch ư vương. Vương viết: "Sơn man chi chủng dữ thủy tộc thù, bỉ hiếu đồng nhi ố dị, cố vị xâm hại". Nãi lịnh nhân dĩ mặc thích thân, vi thủy quái chi trạng, tự thị xà long vô giảo thương chi hoạn. Bách Việt văn thân chi tục thực thủy vu thử. Quốc sơ, dân dụng vị túc, dĩ mộc bì vi y, chức quản thảo vi tịch, dĩ mễ tể vi tửu, dĩ quang lang, tung lư vi bản, dĩ cầm thú ngư hà vi hàm, dĩ khương căn vi diêm, đao canh hỏa chủng. Địa đa nhu mễ, dĩ trúc đồng xuy chi. Giá một vi ốc dĩ tị hổ lang chi hại. Tiển đoản kỳ phát dĩ tiện nhập lâm. Tử chi sơ sinh dã, dĩ tiêu diệp ngoa chi. Nhân chi tử dã, tương thung, linh lân nhân văn chi, suất lai tương cứu. Nam nữ giá thú, dĩ diêm phong tiên vi vấn lễ, nhiên hậu sát ngưu dương dĩ thành phu phụ. Dĩ nhu phạn nhập phòng trung tương thực tất, nhiên hậu giao thông, dĩ thử thời vị hữu tân lang cố dã. Cái bách nam nãi Bách Việt chi thủy tổ dã.
(Lĩnh Nam chích quái liệt truyện; Quyển chi nhất)
Dịch nghĩa
TRUYỆN HỌ HỒNG BÀNG
Cháu ba đời họ Viêm Đế Thần Nông là Đế Minh sinh ra Đế Nghi, nhân đi tuần thú phương Nam, tới miền Ngũ Lĩnh, gặp con gái bà Vụ Tiên, đem lòng yêu thích, lấy về, sinh ra Lộc Tục, dung mạo đoan chính, sớm tỏ ra thông minh nhanh nhẹn. Đế Minh thấy thế, lấy làm lạ, cho nối vua, nhưng Lộc Tộc cố nhường cho anh là Đế Nghi, không dám vâng mệnh. Đế Minh vì vậy lập Đế Nghi thay mình cai trị đất Bắc, phong cho Lộc Tục làm Kinh Dương Vương cai trị phương Nam, lấy hiệu nước là Xích Quỷ. Kinh Dương Vương có tài xuống Thủy Phủ, lấy con gái của Động Đình Quân là Long Nữ, sinh ra Sùng Lãm, ấy là Lạc Long Quân, thay cha trị nước. Còn Kinh Dương Vương thì không biết đi đâu.
Lạc Long Quân dạy cho dân cày cấy, ăn mặc; trong nước từ đó mới có thứ tự quân thần, tôn ti; mới có luân thường giữa cha con, chầng vợ. Có lúc Long Quân trở về Thủy Phủ mà trăm họ vẫn yên vui. Hễ dân có việc, cứ gọi Lạc Long Quân rằng: "Bố ơi, sao không về để cứu chúng con" (người Việt gọi "phụ" là "cha" hoặc "bố", gọi "quân" là "vua", chính là vậy), Long Quân liền về ngay. Sự oai linh cảm ứng của Long Quân người ta không tài nào lườn được.
Đế Nghi truyền ngôi cho con là Đế Lai. Nhân khi phương Bắc vô sự, nhớ đến chuyện ông mình là Đế Minh đi tuần thú phương Nam gặp được tiên nữ, Đế Lai bèn bảo kẻ bề tôi thân cận là Xuy Vưu, thay mình giữ nước, rồi đi tuần du nước Xích Quỷ ở phương Nam. Đến nơi, Đế Lai thấy Lạc Long Quân đã về Thủy Phủ, trong nước vô chủ, bèn để cho ái nữ Âu Cơ và những kẻ hầu hạ ở lại nơi hành tại, còn mình thì đi dạo chơi trong thiên hạ, xem khắp các nơi hình thắng. Thấy những hoa kỳ cỏ lạ, trân cầm dị thú, tê tượng đồi mồi, bạc vàng châu ngọc, tiêu quế nhũ hương, trầm đàn các vị, cùng sơn hào hải vật không thiếu một thứ nào. Bốn mùa khí hậu lại không lạnh không nóng, Đế Lai lòng yêu thích, quên cả chuyện về. Nhân dân nước Nam khổ vì cảnh phiền nhiễu, không được yên lành như xưa, ngày đêm mong Long Quân trở lại, bèn cùng nhau cất tiếng gọi rằng: "Bố ở nơi nao, hãy mau về cứu chúng con!". Long Quân thoát nhiên trở về, thấy Âu Cơ đang một mình, dung mạo tuyệt mỹ. Long Quân lấy làm yêu thích, bèn hóa thành một chàng trai hình dáng xinh đẹp, tả hữu trước sau có đông đảo kẻ hầu người hạ, tiếng ca tiếng nhạc vang lừng đến nơi hành tại. Âu Cơ thấy Long Quân, lòng cũng xiêu xiêu. Long Quân đón về ở động Long Trang. Đến lúc Đế Lai trở về, không thấy Âu Cơ sai quần thần đi tìm khắp thiên hạ. Long Quân có phép thần, biến hóa ra trăm hình vạn vẻ, nào yêu tinh quỷ mị, nào rồng rắn hổ voi, làm cho kẻ đi tìm sợ hãi không dám lục sạo, Đế Lai đành phải trở về phương Bắc. Đế Lai truyền ngôi cho đến Đế Du Võng thì đánh nhau với Hoàng Đế ở Phản tuyền, không thắng mà được chết, họ Thần Nông đến đây thì mất.
Long Quân và Âu Cơ sống với nhau chừng một năm thì sinh được một cái bọc, cho là điềm không lành nên đem vứt ra ngoài đồng. Qua bảy ngày, cái bọc nở ra một trăm trứng, mỗi trứng là một người con trai. Long Quân liền đón về nuôi, không cần bú mớm, các con tự lớn, người nào cũng trí dũng kiêm toàn, ai ai trong thấy đều kính phục, cho là đám anh em phi thường. Long Quân ở mãi nơi Thuỷ Phủ, làm cho mẹ Âu Cơ phải sống lẻ loi, muốn về đất Bắc. Khi đi tới biên giới, Hoàng Đế nghe tin lấy làm lo sợ, bèn chia quân ra ngăn giữ ngoài cửa ải. Mẹ con không về Bắc được, đêm ngày gọi Long Quân rằng: "Bố ở nơi nao, làm mẹ con tôi phải buồn đau!". Long Quân bỗng nhiên tới, cùng gặp nhau ở Tương Dã. Âu Cơ vừa khóc vừa nói rằng: "Thiếp nguyên người đất Bắc, cùng chàng ăn ở với nhau, sinh được trăm đứa con trai không biết dựa vào đâu nuôi nấng, vậy xin theo chàng; mong chàng đừng ruồng bỏ, làm cho mẹ con thiếp hóa ra những kẻ không chồng không cha, chỉ riêng mình đau khổ thôi". Long Quân nói: "Ta là giống Rồng, đứng đầu thủy tộc; nàng là giống Tiên, người ở trên đất, vốn không đoàn tụ được với nhau, tuy khí âm dương hợp lại mà sinh con, nhưng giòng giống tương khắc như nước với lửa, khó bề ở lâu với nhau được. Nay phải chia ly, ta sẽ mang năm mươi con trai về Thủy Phủ, chia trị các nơi, còn năm mươi đứa sẽ theo nàng ở rên đất, chia nuớc ra mà cai trị. Những lúc lên non, xuống nước có việc cùng gắn bó đừng bỏ rơi nhau". Trăm người con trai đầu nghe theo, rồi cùng nhau từ biệt.
Âu Cơ và năm mươi người con trai đến ở đất Phong Châu (nay chính là huyện Bạch Hạc), cùng tôn người anh cả lên làm vua, hiệu là Hùng Vương, lấy tên nước là Văn Lang. Nước ấy đông giáp Nam Hải, tây giáp Ba Thục, bắc đến Động Đình, nam đến nuớc Hồ Tôn (nay chính là nuớc Chiêm Thành). Chia nước ra làm mười lăm bộ, là Giao Chỉ, Chu Diên, Ninh Sơn, Phúc Lộc,Việt Thường, Ninh Hải, (nay chính là Nam Ninh), Dương Tuyền, Quế Dương, Vũ Ninh, Y Hoan, Cửu Chân, Nhật Nam, Chân Định, Quế Lâm, Tượng Quận, sai các em chia nhau cai trị. Dưới vua, có đặt ra các chức tướng văn tướng võ. Tướng văn gọi là Lạc hầu, tướng võ gọi là Lạc tướng. Con trai vua gọi là Quan Lang, con gái vua gọi là Mỵ nương. Tư mã gọi là Bồ chính. Nô bộc gọi là Trâu, nô tỳ gọi là Tinh, các quan gọi là Khối. Đời đời cha truyền con nối gọi là Phụ đạo. Các vua truyền ngôi cho nhau lấy hiệu là Hùng Vương mà không thay đổi. Thời bấy giờ, dân ở miền núi xuống đánh cá ở dưới nước thường bị loài giao xà gây thương tổn, bèn tỏ bày việc ấy với vua. Vua nói: "Giống sơn man khác với giống thủy tộc; giống thủy tộc vốn ưa những cái giống mình và ghét những cái khác mình, cho nên ta bị chúng gây hại". Bèn ra lệnh cho ai nấy đều lấy mực xăm vào người thành hình thủy quái, từ đó không còn lo xà long cắn bị thương nữa. Tục vẽ mình của dân Bách Việt thực bắt đầu từ đấy. Vào buổi đầu dựng nước, đồ dùng của dân chưa đủ, phải lấy vỏ cây làm áo, dệt cỏ ống làm chiếu, lấy cốt gạo làm rượu, lấy cây quáng lang làm thức ăn, lấy cây tung lư làm giường nằm, lấy cầm thú cá tôm làm mắm, lấy củ gừng làm muối. Cày bằng dao, trồng bằng lửa. Đất sản xuất nhiều gạo nếp, lấy ống tre mà thổi gạo ấy. Gác gỗ làm nhà dđể tránh hổ lang làm hại. Cắt tóc ngắn để tiện vào rừng. Con mới đẻ ra, lấy lá chuối lót cho nằm. Có người chết thì giã cối cho láng giềng nghe tiếng để kéo nhau đến cứu giúp. Con trai con gái khi hôn thú, trước hết lấy gói muối làm lễ hỏi, rồi sau đó mới giết trâu giết dê để thành vợ thành chồng. Đem cơm nếp vào buồng cùng ăn xong, vợ chồng mới thành thân. Vì hồi bấy giờ trầu cau chưa có. Trăm người con trai chính là tổ tiên của dân Bách Việt vậy.
(Lĩnh Nam chích quái liệt truyện; Quyển I)
TUẤN NGHI